Tập 08: Underworld
Chương 168: Ác mộng đến từ biển sâu (2).
5 Bình luận - Độ dài: 6,852 từ - Cập nhật:
Sống lại ở dị giới.
Chương 168: Ác mộng đến từ biển sâu (2).
Sự hoài nghi của Skjold nhanh chóng bị phá tan bởi tiếng chuông báo hiệu ở ngoài bờ biển. Thường ở các làng chài nhỏ, trước khi có tàu ra khơi thì thuyền trưởng sẽ rung chuông ở bến thuyền báo hiệu cho các thuyền viên của mình tập hợp, và đây là tiếng chuông báo hiệu đến cho Skjold và những thủy thủ đoàn khác trên thuyền hiện vẫn chưa có mặt. Tiếng chuông inh ỏi đó đã khiến cho chàng trai trẻ nhanh chóng vác hành lý rời khỏi nhà mà chẳng còn bận tâm gì đến giấc mơ đáng sợ đêm qua nữa.
Ở bến tàu, phải mất một lúc sau thì thuyền viên cùng tàu với Skjold mới tụ họp đầy đủ. Thấy thành viên tập họp đã đông đủ, thuyền trưởng mới bắt đầu tuyên bố một vài điều trước khi phổ biến vùng biển mà mọi người sẽ hướng đến và sẽ bắt loại sinh vật biển nào.
“Anh em, các bạn, gia đình.” Thuyền trưởng khởi đầu bằng những câu nói mạnh mẽ và truyền nhiệt huyết. “Như tôi đã nói trước đó, đây sẽ là chuyến đi cuối cùng của chúng ta. Một khi bắt được con thủy quái đó chắc chắn chúng ta sẽ hoàn toàn không cần phải ra khơi thêm một lần nào nữa.” Nói đến đây, toàn bộ thủy thủ đoàn rầm rộ reo lên vui mừng đầy hăng hái. Thuyền trưởng lại đưa tay lên ra hiệu cho tất cả im lặng để ông ta tiếp lời với vẻ khí thế. “Thế nhưng, hôm qua chúng ta đã nhận được một lời khuyên từ già làng, rằng chuyến đi này của chúng ta vô cùng hung hiểm.” Ông lại nhìn về phía một người trong đoàn mà nói với giọng yếu ớt èo ọt không còn khí thế như lúc ban đầu, giống như đang chế giễu già làng. “Chuyến đi này của các con sẽ một đi không trở lại đấy. Các con chắc chắn vẫn muốn giong buồm vào ngày mai chứ?” Vừa dứt lời thì cả ông thuyền trưởng và đa số thuyền viên đều cười phá lên đầy châm biếm. “Nào, hãy bình tĩnh.” Ông ta vừa tiếp tục nói vừa không nhịn được cười. “Các anh em, chúng ra giong buồm ra khơi có khi nào là không có sự hung hiểm? Có khi nào là sóng yên biển lặng?” Ông ta bắt đầu nghiêm túc, và gào lên bằng cả cảm xúc đầy nhiệt huyết của mình. “Không bao giờ. Đại dương là nhà của chúng ta, là mẹ thiên nhiên của chúng ta. Bà đã cho chúng ta rất nhiều tài nguyên mà những kẻ khác không thể nào cho chúng ta được. Chúng ta là những đứa con của biển, chúng ta sinh ra gần biển, lớn lên trên những cơn sóng biển, chúng ta được thừa hưởng những tài nguyên quý báu mà Mẹ đã cất giữ dưới lòng đại dương. Những cơn sóng là vòng ôm của Mẹ, những sinh vật dưới biển là quà tặng của Mẹ dành cho chúng ta.” Dứt câu ông giơ ngọn mâu lên cao khiến cho toàn bộ thủy thủ đoàn reo hò rôm rã cả một vùng. Ông hét lên. “Có ai muốn từ bỏ chuyến tàu cuối cùng này không?”
“Không!” Tất cả thủy thủ đồng thanh hưởng ứng.
“Có ai muốn từ bỏ món quà mà Mẹ tặng cho chúng ta không?” Ông thuyền trưởng bắt tay lên tai để lắng nghe câu trả lời của mọi người.
“Không!” Thuy thủ đoàn lần nữa đồng thanh.
“Vậy món quà cuối cùng mà Mẹ trao cho chúng ta, có ai muốn từ chối không?” Ông lại lần nữa vểnh tai lên làm động tác như ban nãy.
“Hoàn toàn không. Thuyền trưởng, chúng tôi muốn nhận đặc ân của Mẹ Biển Cả.” Tất cả thủy thủ lần nữa khẳng định.
“Rất tốt, vậy thì đây sẽ là hải trình của chúng ta.” Vừa nói, ông thuyền trưởng dán tấm bản đồ lên bản thông báo tại bến cảng và phổ biến cho mọi người. “Trước khi ra Eo Biển Sắt, thì chúng ta sẽ ghé qua làng Skogmyr để tập hợp thêm nhân lực, và sang Upsir ở cửa biển để nhận thêm những ngọn mâu săn thủy quái. Từ đó, đội thuyền chúng ta sẽ xuôi về hướng Nam men theo eo biển, cho đến khi chạm tới quần đảo Chuỗi Xích Bạc. Một khi vượt qua được quần đảo này thì chúng ta chính thức tiến vào đại dương Faith. Con thủy quái kỳ lạ mà tôi bắt gặp được nó xuất hiện tại đó. Và chuyến đi này có thể mất vài tháng cho đến một năm, thậm chí là hơn một năm. Vì vậy, đây là cơ hội cuối cùng, ai không muốn tham gia thì có thể rút lui ngay bây giờ.” Sau một hồi im lặng không thấy ai có ý định rời khỏi thì ông thuyền trưởng nói tiếp như ra lệnh. “Tốt, thế thì thủy thủ làng Sjolund, hãy kéo neo lên chúng ta bắt đầu giong buồm thôi.”
“Giong buồm ra khơi cùng thuyền trưởng Hrodgæir Sigurdsson!” Toàn bộ thủy thủ đoàn hô to, rồi hò reo inh ỏi kéo nhau ra thuyền.
“Này Skjold.” Thuyền trưởng đứng trên bục phát biểu khi nãy hô lên về hướng chàng trai trẻ. “Còn đứng đực ra đấy làm gì, mau lên thuyền cùng các anh em đi.”
“Vâng, thưa thuyền trưởng.” Skjold nhanh chóng lấy lại tinh thần sau khi chăm chú nhìn vào tấm hải đồ do thuyền trưởng bày ra. Ở vùng biển được đánh dấu trên tấm bản đồ, nơi mà đoàn thuyền sẽ đến săn thủy quái có một cỗ lực lượng vô hình vừa hấp dẫn chàng trai trẻ khiến cậu phải ngây người ra một lúc, cho đến khi thuyền trưởng gọi hồn cậu quay về.
Khi tất cả thuyền viên đã lên thuyền và ra sức chèo qua một con sông tương đối rộng giữa hai làng Sjolund và Skogmyr, cuối cùng thì mọi người cũng đã tụ họp tại đây đầy đủ. Những người anh em thủy thủ tại đây cũng vừa chấm dứt một cuộc phát biểu hâm nóng tinh thần bởi thuyền trưởng Ragnvald Vegeirsson, cũng là một người bạn đi biển với thuyền trưởng Hrodgæir Sigurdsson từ nhiều năm về trước, khi đó cả hai vẫn còn là thuyền viên thực tập trên một con thuyền lớn khác.
Hai làng chài Sjolund và Skogmyr chỉ cách nhau một con sông, nên thường qua lại với nhau và cũng thường có những chuyến đi biển cùng nhau. Thủy thủ đoàn hai bên gặp nhau cũng rất vui mừng chào hỏi như thể họ là anh em xa nhà đã lâu không gặp vậy. Nhưng riêng Skjold, cậu trai trẻ này lại cảm thấy có gì đó rất lạ từ lúc thức dậy cho đến hiện tại. Mỗi khi cậu đứng cô độc một mình và lắng nghe tiếng sóng nước vỗ vào bờ thì lại giống như đang bị thôi miên vậy. Cậu có một cảm giác không thực tế, dù mọi thứ đang diễn ra trước mặt cậu hoàn toàn chân thật. Từ bầu không khí lạnh vào sáng sớm, mùi tanh nồng ở bờ sông cùng những mẻ lưới đang phơi ở cạnh bờ, bên cạnh đó là mùi hôi cơ thể quen thuộc của những thủy thủ đoàn mà cậu đã từng sánh vai không biết bao nhiêu lần, chỉ cần nhắm mắt cậu cũng có thể phân biệt được ai với ai mang mùi đặc trưng gì, cuối cùng là những dụng cụ đi biển mang hương vị mặn của đại dương vẫn còn đang phản phất trước cánh mũi cậu. Khứu giác không phản bội cậu, xúc giác thì lại càng không thể, cậu cảm thấy những thứ mình chạm vào là hoàn toàn có thật. Nhưng thị giác lẫn thính giác lại cảm thấy nhiều thứ rất mơ hồ, đôi khi cậu có thể nghe những âm thanh kỳ lạ mà mắt thường không thể thấy được.
Bỗng đột nhiên, khi thủy thủ đoàn hai bên đã chào hỏi xong và chuẩn bị chuyển đồ lên thuyền để lên đường thì cậu lại thấy một ông lão đang ngồi câu cá ở gần bến đỗ. Rõ ràng khi vừa xuống thuyền thì nơi đó chỉ là một bến đỗ mục nát rong rêu bám đầy chẳng có ai cả, nhưng giờ lại có người đang ngồi câu cá tại đó khiến cho chàng trai trở nên cảnh giác và không thể rời mắt.
“Chàng trai trẻ. Tranh thủ lúc còn sớm thì hãy rời khỏi đây đi.” Ông lão đánh cá trầm giọng nhắc nhở Skjold, khiến cậu phải ngạc nhiên quay đầu ngó nghiêng nhìn hai bên xem có phải ông ta đang nói với mình không.
“Ông đang nói chuyện với tôi sao?” Skjold vẫn hỏi lại để xác minh, nhưng cậu không cần câu trả lời mà vẫn tiếp tục hỏi tiếp. “Ông khuyên tôi rời khỏi đây là sao? Tôi tất nhiên là sẽ rời khỏi rồi, thuyền của chúng tôi đang chuẩn bị ra khơi. Thuyền trưởng và cùng với...”
“Không, cậu trai trẻ, cậu vẫn chưa hiểu.” Ông già ngắt lời Skjold. “Ta nói rời khỏi đây, rời khỏi nơi này chỉ mình cậu. Cậu nên quay về nơi của mình khi còn có thể, chứ không phải thuyền trưởng hay bất cứ thành viên đoàn nào cùng thuyền với cậu.” Ông lão đánh cá lại chỉ về phía hông của Skjold, nơi cậu đeo thanh đoản kiếm nhận được từ già làng và ông ta chỉ tới chiếc vòng ngọc trai máu trên cổ cậu. “Hãy giữ chặt thanh đoản kiếm và đi theo hướng dẫn của chiếc vòng cổ, chúng sẽ bảo vệ và dẫn lối cậu quay về an toàn.”
“Bảo vệ? Dẫn lối?” Skjold đần mặt ra khi không hiểu ý ông lão đánh cá muốn nói gì. Cậu chỉ nhìn lại thanh đoản kiếm với cái chui vẫn đang phát sáng và vòng cổ bị chuyển sang màu hổ phách từ sáng sớm mà đăm chiêu.
Khi cậu vẫn còn thất thần tại chỗ thì nhận ngay tiếng quát của thuyền trưởng. “Này Skjold Audunsson. Cậu có định đi không hay ở lại? Nếu đi thì nhanh chóng lên thuyền chứ đừng đứng đó ngắm trời ngắm đất nữa.”
“Tôi tới ngay đây, thuyền trưởng.” Skjold giật mình phản hồi lại, xong cậu lại quay sang nhìn về phía ông lão đánh cá, nhưng giờ chỗ bến đỗ mục nát ấy chẳng còn ai ngồi cả. Cậu định nói lời tạm biệt với ông lão, nhưng giờ cậu chỉ cảm thấy có một cảm giác rợn người đang chạy dọc sống lưng. Một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ khiến cậu rét run vì lạnh.
Không nghĩ ngợi nhiều nữa, cậu quay lại thuyền và cùng tất cả ra sức chèo ra đến cửa biển, nơi làng Upsir rèn đúc ra những ngọn mâu săn thủy quái. Tàu lớn của mọi người cũng đang neo ở gần đây, và họ chỉ mất thêm chút thời gian để vận chuyển lương thực lẫn vũ khí đưa lên thuyền. Chuyến đi săn thủy quái này của hai thuyền trưởng Hrodgæir và Ragnvald có thể nói là chuyến đi lớn nhất trong đời họ, đoàn tàu ra khơi lần này lên đến năm chiếc tàu chiến và số lượng thủy thủ đoàn lên đến hơn sáu trăm người. Ai nấy cũng đều thấy đội thuyền này rất hùng hậu và có uy thế. Bất kỳ người nào nhìn thấy, cũng đều cho rằng chuyến đi săn này của các thủy thủ đều sẽ thành công và mang về cho họ một con thủy quái độc nhất chưa từng xuất hiện trên thị trường. Chẳng mấy chốc, lương thực và quân nhu đã được vận chuyển đầy đủ lên tàu, và mọi người bắt đầu kéo những chiếc thuyền con lên tàu lớn và giong buồm ra khơi.
Chuyến đi trải qua rất nhiều ngày, và đoàn tàu cũng tranh thủ bắt vài mẻ cá để khi cần thì sẽ cập vào một vài bến cảng trên đường đi dọc theo eo biển đổi lấy những vật dụng cần dùng khác. Trong thời gian đó, các thuyền trưởng và thuyền viên trao đổi với nhau rất nhiều về chiến thuật, sự cố phát sinh và phân công hỗ trợ tránh gây gây thiệt hại nặng nề cho các tàu lớn. Họ cũng phát động những cuộc tập huấn trong suốt chuyến hải trình, và chẳng bao lâu đoàn tàu của họ đã vượt qua quần đảo Chuỗi Xích Bạc để chuẩn bị tiến vào đại dương Faith. Lúc này, cuộc họp quan trọng cũng bắt đầu diễn ra. Skjold cũng là một thành viên được tham dự cuộc họp này, và điều gây chấn động với cậu nhất là về chủ đề con thủy quái kia khi được thuyền trưởng công bố chia sẻ thông tin. Trong một khoang tàu, thuyền trưởng Hrodgæir bắt đầu gây sự chú ý đến mọi người và dán những bức tranh vẽ tay lên bản kế hoạch.
“Đây, là hình thù của con thủy quái được người khác vẽ lại.” Thuyền trưởng Hrodgæir vừa nói, vừa ra hiệu cho thuyền trưởng Ragnvald phụ một tay. Khi dán xong thì ông lại nói tiếp. “Còn những tập này, là tài liệu nghiên cứu do tôi và Ragnvald thảo luận để viết ra. Đó là cách săn thủy quái của những nơi khác, và có một phần bản báo cáo của mấy đội thuyền trước đó đã thất bại khi săn con thủy quái này.”
“Trước đội của chúng ta thì đã có đoàn từ các thành phố lớn hoặc thị trấn dám thử sức săn con thủy quái này, ví dụ như Bengisu, Tolga, Oakrun, Fammala, Copty và Agra. Tất cả đều đã thất bại.” Ông Ragnvald tiếp lời thay cho Hrodgæir. “Nhưng họ không giống với chúng ta. Họ đi săn riêng lẻ và đã có đội từng làm tổn thương sinh vật kia. Dù vậy, sinh vật đó vẫn không hề rời khỏi đại dương Faith mà vẫn lẫn trốn đâu đó dưới đáy biển, thi thoảng lại nổi lên. Tôi muốn nói, với đội thuyền hùng hậu này, đoàn thuyền của chúng ta chắc chắn sẽ săn được con thủy quái đó và trở về trong sự huy hoàng.” Ông Ragnvald nói xong thì đám thủy thủ lại reo lên đầy khí thế.
“Im lặng, ổn định lại chút đã.” Thuyền trưởng Hrodgæir gào lên để giữ trật tự. “Mọi người hãy nhìn lên đây. Những bức hình này là hình vẽ tay do các thủy thủ đoàn của những nơi trên phát họa lại. Tuy không chính xác hoàn toàn nhưng chúng ta vẫn có thể ghép tất cả lại để xác định nó là giống loài gì và vạch ra kế hoạch thích hợp lúc đi săn.” Ông lật nhanh quyển sổ tay của mình và giơ lên cao khi có một bức hình hoàn chỉnh do chính tay ông vẽ. “Đây là hình thù của con thủy quái do tôi phỏng đoán, dựa trên những bức vẽ thu nhập được. Mọi người ngồi đây sẽ không nhìn rõ nếu tôi vẫn cầm quyển sổ này trên tay, thế nên hãy truyền tay nhau để xem cho rõ và trả lại cho tôi khi đã xem xong. Kế đó tôi sẽ cùng thuyền trưởng Ragnvald phổ biến kế hoạch cụ thể.”
Truyền trưởng Hrodgæir đưa quyển sổ tay của mình xuống thành viên ngồi đầu bàn, và họ bắt đầu truyền tay nhau để xem xét phân loại con thủy quái này. Tất nhiên trong đầu họ cũng nhanh chóng nghĩ ra vài kế hoạch khả thi để góp ý kiến sau cuộc họp. Thế nhưng, những chú thích của thuyền trưởng đã khiến họ rơi vào sự ngoài nghi, và chàng trai Skjold là người kinh ngạc nhất khi thấy những thông tin này.
Con thủy quái có thể là loài thuồng luồng khổng lồ, chiều dài ước tính lên đến năm mươi mét. Có tứ chi đầy đủ vuốt sắt nhọn, hàm to khỏe có thể cắn nát thân tàu nếu không được bọc thép cẩn thận. Xương sọ nhô ra ngoài nhiều chứng tỏ lực húc của sinh vật này cũng không hề yếu. Có vây hai bên hong giúp di chuyển linh hoạt hơn dưới nước, đặc biệt là phần đuôi giống loài tôm có thể tăng tốc độ bơi thẳng trong nháy mắt. Dù được đoán rằng đây là loài thuồng luồng khổng lồ, nhưng vẫn có một lớp giáp dày bao bọc thân thể. Chính vì lớp giáp này nên mới khiến cho con thủy quái trở nên khó săn hơn.
Ngoại trừ những đặc điểm trên ra, Skjold còn có thể nhìn thấy rõ bức họa phát thảo do thuyền trưởng vẽ nữa. Sinh vật này tuy không giống hoàn toàn, nhưng đa số nó có mang đặc điểm hệt như con rồng biển khổng lồ mà cậu đã mơ thấy. Nhất là phần xương xọ nhô cao, phần đuôi có mái chèo giống đuôi tôm, cả vây mang màu đỏ lẫn lớp giáp phần lưng có màu xanh óng ánh của đại dương nữa. Khi nhìn vào con thủy quái này Skjold hoàn toàn có thể liên tưởng đến ngay con rồng biển kinh khủng kia. Đặc biệt là, ánh mắt màu hổ phách đầy phẫn nộ của con thủy quái này, nó hoàn toàn giống với những ánh mắt màu hổ phách phía sau con rồng biển lúc còn trong giấc mơ. Skjold tự hỏi bản thân, liệu cậu có bị ảo giác trùng lặp không hay đây là điềm báo nguy hiểm mà già làng muốn cậu từ bỏ chuyến hải trình này trước đó. Giờ cậu chẳng thể nghĩ ngợi gì được nữa. Xuyên suốt buổi họp bàn kế hoạch cậu chỉ biết im lặng ngồi lắng nghe chứ chẳng hề dám đưa ra ý kiến hay phỏng đoán gì.
Tối đó, sau khi kết thúc buổi họp mọi người lại trở về vị trí của mình, đồng thời cũng chuẩn bị sẵn bên mình những vật dụng cứu sinh lúc nguy cấp. Skjold giữ vị trí quan sát trên cột thuyền chính đêm nay và cậu vẫn chưa quên bức họa con thủy quái trong phòng họp ban nãy. Cậu nhìn về phía xa xa, nơi những cơn sóng biển lấp lánh ào ạt gợn sóng bởi những ngọn gió đêm. Nếu không phải vì cơn ác mộng đêm đó thì có lẽ khung cảnh lúc này đối với cậu trai trẻ sẽ rất đẹp và lãng mạng. Nhưng tiếc rằng, giờ cậu đã bị giấc mơ ấy ám ảnh đến nỗi khi nhìn xuống biển lúc ban đêm cũng khiến cậu trở nên run rẫy không dám nhúc nhích dù chỉ một chút. Thế nhưng, đối với một quan sát viên của tàu, Skjold không thể không để ý những biến động bất thường dưới mặt nước được. Nếu có tình huống đặc biệt gì phát sinh thì cậu chính là người phải rung chuông cảnh báo đến tất cả mọi người, và các thuyền xung quanh.
Vậy mà, càng về đêm, gió biển càng lạnh. Skjold một mình lặng lẽ ngồi canh gác như một cái xác vô hồn. Cậu chỉ nhìn theo một hướng xuống biển như thể có vật gì đó thu hút cậu dù nãy giờ chẳng có biến động gì xảy ra, và chàng trai trẻ đã duy trì như thế kể từ lúc cậu lên cột quan sát. Người trên thuyền phía dưới vẫn vô tư sinh hoạt, chẳng ai để ý đến chàng trai tội nghiệp đó cả. Thực chất vào lúc này, Skjold đã rơi vào trạng thái bị thôi miên và đã chìm sâu vào giấc ngủ bởi một sức mạnh vô hình.
Trong giấc mơ, Skjold thấy mình đang nằm ngủ quên trong một khoang chứa hàng ở trên tàu. Cậu chỉ lờ mờ nhớ mình đáng lẽ ra phải đang ở trên cột buồm quan sát chứ không phải ở dưới này. Cậu lồm cồm ngồi dậy, xoa xoa cái đầu đang nhức như búa bổ của mình. Một lát sau cậu mới cảm thấy đỡ hơn và mới bắt đầu đứng dậy. Khoang tàu này hoàn toàn tối tăm, có mùi móc và đầy đụi, kèm theo tiếng nước róc rách chảy ở đâu đó. Kiểm tra lại trên cơ thể mình, Skjold vẫn thấy thanh đoản kiếm vẫn còn treo bên hông và vòng ngọc trai máu vẫn còn trên cổ mình, nhưng viên ngọc trai lúc này đã đổi sang màu nhạt và có thể phát sáng đủ để cậu soi đường.
Sẵn có vật chiếu sáng, Skjold kiểm tra xem mình đang ở đâu, và cậu nhận ra mình đang ở trong một khoang chứa cũ kĩ không giống với khoang chứa trên tàu của mình. Đồ đạc trong khoang chứa này đã đóng bụi dày mấy lớp, và trong không khí cũng có bụi bay khi ánh sáng chiếu qua. Bàn ghế, kệ tủ gì cũng đều đã cũ, đến mức chạm vào cũng có thể làm chúng hư hại. Đặc trưng là mùi móc và hương vị mằn mặn của biển.
Nhắc đến biển, Skjold hoảng hốt soi đèn kiểm tra các vách tường, vì đây là một khoang chứa cũ kĩ nên cậu lo lắng nơi này đang bị chìm dần khi nghe tiếng nước róc rách bên tai liên hồi. Khi soi ánh sáng lên một vách tường, cậu thật sự thấy có nước đang chảy vào khoang chứa mà cậu đang ở, nhưng kỳ lạ thay là chúng không hề tràn ra sàn hay làm ướt bất cứ gì chúng chảy qua. Một dòng nước kì lạ kéo dài bao quanh căn phòng, nhưng không làm ngập và vật dụng trong đây vẫn bám bụi không bị gột rửa.
Chàng trai phương Bắc cảm thấy nơi này không bình thường, cậu nhanh chóng tìm lối ra, và đã thoát ra được phòng bên cạnh. Căn phòng bên cạnh sáng sủa hơn một chút, và là phòng ăn tập thể nhưng cũng tồi tàn không khác gì khoang chứa hàng bên cạnh, cũng bụi bám đầy và mùi tanh tưởi của hải sản chết có ở khắp nơi. Thế nhưng, Skjold đột nhiên nhận ra cách bố trí phòng ăn này có chút giống với phòng ăn trên thuyền của cậu. Kể cả vết tích của dao nĩa để lại chi chít trên mặt bàn cũng vậy, tuy đã hơi cũ nhưng cậu nhận ra vài nơi có ấn tượng với mình, và đặt biệt chỗ cậu hay ngồi có những dấu vết y chang như thế không khác chút nào.
Skjold không nghĩ ngợi gì nhiều mà rút thanh đoản kiếm bên hông ra một cách dứt khoát và bắt đầu cảnh giác. Cậu thở từng hơi một cách nặng nhọc và mắt thì láo liên nhìn hết bên này đến bên khác trong phòng ăn. Dù không biết đã có chuyện gì xảy ra nhưng cậu cảm thấy đã có chuyện chẳng lành ập xuống con thuyền này, và hiện chẳng có một ai ở quanh đây hay dấu tích của một cuộc xung đột cũng chẳng có. Một con tàu lớn có đến hơn trăm người, thế mà hiện tại một chút vết tích hay động tĩnh gì cũng không lưu lại.
Một lúc sau khi đã bình tĩnh lại, Skjold mới rời khỏi phòng ăn và ngó ra phía hành lang. Trên tàu dù đã hoang tàn nhưng một số đá ma thuật còn năng lượng vẫn đang hoạt động, chúng thấp sáng không đều, chỗ có ánh sáng chỗ thì không. Cậu lần mò về hướng lên trên boong tàu để xem xem rốt cuộc nơi này đã xảy ra chuyện gì, nhưng cửa boong đã bị khóa chặt. Cậu cần phải có chìa khóa của thuyền trưởng và một viên đá năng lượng có kích cỡ thích hợp mới mở cửa được.
Đi dọc theo hành lang hướng về phía phòng thuyền trưởng, cậu cảm thấy con thuyền này dường như đang bị mắc kẹt ở đâu đó chứ không phải lênh đênh trên biển. Bởi vì, từ lúc lấy lại bình tĩnh đến giờ cậu không hề thấy con thuyền này chao đảo hay bấp bênh lên xuống bởi sóng biển. Điều này khiến cậu sinh ra hai giả thuyết. Một là con tàu đã bị va phải đá ngầm và bị vướng tại đó. Hai là con tàu đã bị mắc phải bãi đá cạn gần bờ, nếu là vậy thì cậu rất vui lòng nhanh chóng thoát ra ngoài để tìm sự giúp đỡ.
Khi quành về hướng hành lang phòng thuyền trưởng, đá ma thuật cạn năng lượng ở đây ngày một nhiều, khiến cho cả hành lang đen hun hút toát lên một nỗi ghê rợn. Đi kèm với đó là một mùi hôi khó tả, mùi hôi đó là mùi hỗn hợp từ mùi của chất thải con người pha trộn với mùi nội tạng đang phân hủy. Mùi này rất đặc biệt và vô cùng khó ngửi, khiến Skjold phải xé một bên tay áo để làm khăn che mặt.
Dù hành lang đã mất đi ánh sáng, nhưng nhờ vào chiếc vòng cổ ngọc trai máu Skjold đã có thể soi đường đến trước cửa phòng thuyền trưởng. Xui thay, dù đã đến phòng thuyền trưởng, nhưng cửa đã bị khóa và trong tay cậu hiện giờ chẳng có gì có thể giúp ích trong tình huống này. Điều này khiến cho chàng trai trẻ tức giận mà thốt lên một câu chửi tục. Không nghĩ nhiều, Skjold quyết định xuống khoang vũ khí tầng dưới để tìm một cây rìu phá cánh cửa phòng thuyền trưởng.
Tầng dưới của con thuyền là một mớ hỗn độn. Từ ngoài hành lang cho đến phòng của các thủy thủ đoàn và kho chứa vũ khí, khắp nơi đều nhớp nháp nhầy nhụa một dịch nhầy không biết nguồn góc từ đâu. Vật dụng ở trong phòng cũng dính chất nhầy tương tự, dịch nhầy này bám ở đâu thì đồ sắt trở nên hoen gỉ vô dụng tới đó. Skjold rất bất mãn với tình hình hiện tại, nhưng cậu không thể bỏ cuộc vào lúc này. Cậu cố gắng lục tìm khắp kho vũ khí để xem còn thứ gì có thể dùng để phá cửa hay không. Cuối cùng, cậu đã tìm ra được một chiếc búa tạ đủ để phá toang cánh cửa ở phòng thuyền trưởng, và thế là cậu đã nhanh chóng quay lại tầng trên.
Nhưng, khi vừa rời khỏi phòng vũ khí và quay lại cầu thang dẫn lên trên, Skjold cảm thấy có thứ gì đó theo phía sau mình. Tiếng chân nặng nề bập bẹ lê lếch từng chút một về hướng cậu, cùng với đó là một chuỗi âm thanh rên rít của một sinh vật lạ mà trước giờ cậu chưa từng nghe. Nếu để ý, cậu có thể nghe được đôi chút âm điệu của con người trong đó, nhưng hoàn toàn bị méo nó và biến dị một cách rợn người. Một nỗi sợ từ đâu ập tới khiến cậu trai phương Bắc phải dựng đứng lông tóc, và nhanh chóng quay lưng lại thủ thế khi rút thanh đoản kiếm bên hông ra, viên ngọc khảm trên chui kiếm lúc này phát sáng hơn bao giờ hết. Vừa lúc quay mặt lại, một con quái vật hình thù chẳng rõ ràng đã lao đến tấn công Skjold. Với nỗi sợ kích thích các giác quan của mình, Skjold không nghĩ ngợi gì mà chỉ hành động theo bản năng. Cậu nhanh chóng lách mình sang một bên và đâm tới tấp sinh vật kia bằng thanh đoản kiếm trong tay, cũng không quên gào thét lên đầy vẻ hung tợn giải phóng đi phần lớn nỗi sợ hãi trong lòng cậu.
Khi hạ gục sinh vật kia xong thì Skjold thả mình ngồi lên những bậc thang gần đó mà thở hồng hộc như vừa chạy nước rút xong. Sinh vật kia dù đã bị giết nhưng nó vẫn còn giật giật tứ chi giống như chưa chết hẳn. Nghĩ thế, Skjold không chần chừ mà bồi thêm một nhát vào não bộ sinh vật kia. Khi đã bình tĩnh lại, cậu mới bắt đầu phân tích cái thứ mà mình mới vừa hạ sát. Nửa thân dưới có thể nhận dạng rõ ràng đó là một con người thông qua y phục của thủy thủ đoàn, nhưng nửa thân trên là một cơ thể nhầy nhụa nhớp nháp đã biến dạng phần lớn thành chất lỏng vàng đặc. Cả cơ thể lẫn gương mặt đều đã bị thay đổi cấu trúc xương, hai tay bị kéo dãn ra giống như một cái xúc tu trong quá trình biến đổi. Dù bị thay đổi cấu trúc xương hay cả cơ thể trở nên nhầy nhụa thì phần con người chưa biến đổi hoàn toàn vẫn còn có thể nhận dạng được. Ví dụ như hốc tai hay hốc mắt, thậm chí cả khoang miệng. Nhưng khoang miệng là nơi thay đổi nhanh nhất ở sinh vật này, chúng không còn hàm răng như con người nữa, bù lại là những chiếc nanh bén ngót và cong vuốt giống với loại sinh vật biển chuyên dùng răng để phá nát những lớp vỏ cứng vậy. Mắt thì bị thoái hóa đã bị mù hoàn toàn vì chúng không còn phản chiếu được ánh sáng, và sinh vật này cũng không thể đánh hơi được vì chúng đã không còn mũi. Còn về thính giác, Skjold chỉ có thể phỏng đoán, sinh vật này vẫn còn có thể nghe được nên mới bám theo cậu sau khi đã rời khỏi kho vũ khí.
Mặt khác, Skjold cũng đã khám phá ra được cái mùi hôi chết người kia xuất phát ra từ đâu. Đó chính là từ đám sinh vật lạ này. Cơ thể chúng thoái hóa, biến đổi, vừa có mùi chất thải của con người vừa có mùi hải sản chết chưa phân hủy. Cũng may là Skjold vẫn còn khăn bịt mũi nên không bị mùi hôi này ảnh hưởng nhiều. Nếu không, có lẽ cậu đã chết vì mùi hôi này trước khi bị sinh vật lạ kia tóm được.
Mặc kệ cái xác của thủy thủ đoàn xấu số, Skjold nhanh chóng vác cây búa tạ trở về phòng thuyền trưởng để phá cửa tìm chìa khóa mở boong tàu. Cậu nhận định con thuyền này chắc chắn đã gặp tai nạn gì rồi nên thủy thủ đoàn mới bị biến đổi như vậy. Bên cạnh đó, sự mất tích phần lớn của thủy thủ đoàn đã khiến cậu cảm thấy nơi này càng trở nên lạnh lẽo, ghê rợm, đầy sự chết chóc. Khi vừa đến được cửa phòng thuyền trưởng, đột nhiên bên hông cậu phát ra một thứ ánh sáng chói mắt khiến cậu phải ngó xuống theo phản xạ. Ánh sáng đó phát ra từ thanh đoản kiếm của cậu, cũng tức là nó đang báo hiệu có thứ muốn giết cậu đang ở gần.
Skjold đặt tay lên chui kiếm, vừa định rút ra thì từ đâu một con quái vật biến dị giống ban nãy đã xuất hiện trước mặt cậu. Nó tóm cổ cậu nhấc lên không bằng chiếc xúc tu, và xúc tu còn lại thì đâm xuyên qua phần hông của cậu. Skjold cảm thấy có một cơn đau xé gan xé ruột truyền đến não bộ của mình. Cậu không thể rên la khi bị siết cổ mỗi lúc một chặt. Cậu rít lên từng cơn qua kẽ răng, đồng thời rút thanh đoản kiếm ra chém liên tục vào cái xúc tu đang siết lấy cổ mình, và thụi vài nhát vào phần đầu của sinh vật kia để cầu may nó sẽ bị chết khi bị đâm vào phần não.
Thế nhưng, lực đâm của cậu không đủ mạnh và cũng không đủ sâu để có thể làm tổn thương đến sinh vật kia. Nó giơ cao cậu lên để tránh bị tổn thương phần đầu thêm nữa, và siết chặt cái xúc tu thêm, chiếc còn lại một lần nữa đâm xuyên qua phần ngực của Skjold, khiến cậu phải nôn ra một tá máu. Cậu trai phương Bắc lúc này đã cảm thấy sự sống của mình đang mờ dần, giống như hình ảnh trước mắt cậu lúc này vậy. Tất cả mọi thứ đều nhòa đi và sinh vật nửa người nửa đột biến kia vẫn liên tục thọt chiếc xúc tu xuyên qua cơ thể cậu hết lần này đến lần khác.
Skjold trở nên bất lực, cậu thả lỏng cơ thể và buông thả thanh đoản kiếm rớt xuống sàn. Cậu đã trút hơi thở cuối cùng trong sự sợ hãi và đầy tuyệt vọng. Lúc này cậu nhớ đến lời khuyên của già làng là không nên tham gia vào chuyến đi biển cuối cùng này. Và cậu cũng nhớ đến lời nhắc nhở của ông lão đánh cá vào buổi sáng hôm bắt đầu khởi hành chuyến đi này nữa. Ông ta bảo cậu nên rời khỏi đây, trở về nơi bản thân cậu vốn thuộc về. Thế nhưng, giờ thì tất cả đã muộn rồi.
Cái xác của Skjold bị thả xuống sàn sau khi đã bị đâm lỗ chỗ khắp nơi. Cậu có thể thấy nội tạng của mình vương vãi khắp nơi trên mặt sàn một cách tàn nhẫn. Chàng trai phương Bắc thoi thớp, cố hít thở những ngụm không khí cuối cùng theo bản năng muốn được tiếp tục sống, nhưng giờ tầm nhìn của cậu chỉ còn một màu đỏ thẫm dần thay thế đi ánh sáng. Cuối cùng, hàng mi của cậu cũng lịm dần và linh hồn cậu cảm thấy như vừa mới bị dìm xuống đáy đại dương. Khung cảnh xung quanh tối mịt hệt như cái đêm cậu mơ thấy cả căn nhà mình bị cuốn trôi bởi sóng biển vậy, chỉ khác là giờ cậu đang lạc lỏng ở đây một mình chứ chẳng được che chở bởi căn phòng ấm cúng của mình nữa. Bên cạnh đó, thứ duy nhất còn đồng hành cùng cậu chính là viên ngọc trai máu mà cậu vẫn còn đeo trên mình. Ánh sáng viên ngọc trai lúc này đã đổi sang một màu trắng tinh khiết, nhưng ánh sáng nó phát ra không đủ để xua tan màn đêm đang cố nuốt trọn lấy linh hồn cậu. Trước khi hoàn toàn buông xuôi tất cả, đôi mắt màu đỏ của con rồng biển khổng lồ đêm nọ lại xuất hiện trong tầm mắt của Skjold. Giờ cậu vốn đã bất lực rồi nên chẳng thể nào bất lực hơn nữa khi thấy ánh mắt đó, nhưng tuyệt vọng thì có, vì không gì tệ hơn khi thấy một sinh vật khổng lồ xuất hiện gần mình sau một cái chết tức tưởi. Cũng như cái đêm đó, không một chút dấu hiệu nào con rồng biển khổng lồ kia đã uốn mình lao tới và há cái miệng to lớn của nó ra nuốt cậu thêm một lần nữa, và Skjold cũng hoàn toàn chết tâm.
Vài giây sau, chàng trai phương Bắc choàng tỉnh trong một tấm lưới đánh cá và mở mắt to ra để nhận thức mọi thứ xung quanh. Điều đầu tiên Skjold kiểm tra chính là cơ thể mình, cơ thể của cậu khi này hoàn toàn lành lặn, chẳng có lấy một chút vết thương nào do xúc tu của sinh vật lạ kia gây ra. Cậu thở hổn hểnh, dáo dác nhìn quanh và thấy thủy thủ đoàn đang vây kín lấy mình.
“Này cậu nhóc. Gác đêm trên cột buồm chính gió mát quá nhỉ?” Một giọng nói già nua nhưng đầy mạnh mẽ, pha chút châm chọc phát ra từ phía của các thủy thủ đoàn, bước ra từ đó chính là thuyền trưởng Hrodgæir, ông ta đến gần tháo lưới cá ra khỏi người chàng trai trẻ và nói thêm. “Mát đến nỗi ngủ quên mà rớt xuống biển lúc nào cũng không hay luôn. Cũng may là cậu mắc vào lưới cá của tàu, bằng không thì bây giờ cậu đã trở thành mồi cho cá rồi.”
“Cám... cám ơn ngài, thuyền trưởng.” Skjold lúc này thở phào nhẽ nhõm vì biết rằng mình vẫn còn sống. Cậu lúng túng nói. “Xin lỗi ngài, đáng lẽ tôi không nên ngủ quên trong ca trực của mình.”
“May cho cậu là đêm qua không có chuyện gì bất thường xảy ra.” Thuyền trưởng vỗ vai Skjold và nói. “Có lẽ thời gian qua lênh đênh ở trên biển khiến cậu đã kiệt sức rồi. Cậu chưa từng đi chuyến nào xa như vầy cả, nên tôi thông cảm cho cậu.”
“Xin lỗi thuyền trưởng. Lần sau tôi chắc chắn sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.” Cậu lần nữa khom người thành khẩn xin lỗi, bên cạnh đó là những tiếng cười đùa cợt của các thủy thủ đoàn khác khi thấy cậu như vậy.
“Được rồi, giải tán đi, ai về việc nấy.” Thuyền trưởng Hrodgæir hô to giải tán đám đông. Ông quay lại nói với Skjold lần nữa. “Skjold, con trai của Audunsson. Cậu còn cả chặn đường dài phía trước cần phải rèn dũa để trở nên lão luyện như cha cậu. Hãy về vị trí và làm tốt bổn phận của mình đi. kỳ này đừng làm tôi thất vọng thêm lần nữa.”
“Rõ thưa thuyền trưởng, tôi sẽ cố gắng không phụ sự tin tưởng của ngài.” Skjold dõng dạt khẳng định, và thuyền trưởng Hrodgæir cũng gật gù hài lòng trước khi ông rời đi.
Một lúc sau, khi quay trở lại vị trí cột buồm chính, Skjold lên tinh thần gấp bội để bắt đầu công việc canh gác của mình. Giờ cả đoàn tàu đã tiến vào đại dương Faith, nên bất cứ lúc nào cũng có khả năng gặp con thủy quái kia. Khi cậu thấy đằng xa có một vòng xoáy mây đen thất thường, dùng óng nhòm quan sát. Một lúc sau cậu liền rung chuông hô to lên.
“Thuyền trưởng! Mọi người! Đằng kia có đám mây bất thường, và mực nước biển ở đó giao động khá cuồng bạo.” Vừa hét to, Skjold vừa chỉ về hướng vòng xoáy mây đen kia. “Thời tiết tốt như này đáng lẽ không nên có một cụm mây kì lạ như thế.”
Thuyền trưởng trên boong nhanh chóng chạy ra phía đầu tàu với cây óng nhòm quan sát. Sau một lúc nhìn về hướng do Skjold chỉ, ông phấn khích hô lên một cách mạnh mẽ. “Đó là vùng biển phát hiện con thủy quái. Đó là vùng biển mà những đoàn trước phát hiện con thủy quái.” Thuyền trưởng lại ra lệnh. “Rung chuông lên báo hiệu cho những thuyền chiến khác. Chúng ta chuẩn bị tiến vào vùng biển hỗn loạn để săn con quái vật kia.”
Toàn bộ thủy thủ đoàn hô reo một cách khoái trá và cười với vẻ đầy hứng thú khi dễ dàng tìm ra vùng biển mà con thủy quái kia sinh sống. Họ nhanh chóng sẵn sàng vũ khí và những khẩu pháo bắn mâu để chuẩn bị bước vào chuyến đi săn chính thức. Kể cả Skjold cũng vậy, cậu đứng trên cột buồm cũng phấn khích không kém gì mọi người trên thuyền. Nhưng, lúc này có một lực hấp dẫn nào đó khiến cậu vô tình nhìn lại vòng cổ ngọc trai máu của mình, nó đã trở lại màu hổ phách. Còn thanh đoản kiếm bên hông, nó lại tiếp tục phát sáng báo hiệu có nguy hiểm đến gần. Cùng lúc, bên tai cậu bắt đầu nghe thấy những lời thầm thì.
“Hãy nhanh chóng rời khỏi đây đi, hãy quay về nơi mà cậu thuộc về trước khi quá trễ.” Đó là lời thì thầm của ông lão đánh cá đã từng nhắc nhở cậu, và giờ giọng nói ấy một lần nữa vang vọng bên trong đầu cậu mà chẳng có một ai ở gần đây.
5 Bình luận