Quyển 1: Vô Tình Chi Nhân, Hữu Tình Chi Tâm.
Chương 22: Nam phương nhất đại kỳ nhân!
0 Bình luận - Độ dài: 9,967 từ - Cập nhật:
Vậy là cuộc sống mới, có phần "bình dị" hơn, của ba chúng tôi bắt đầu tại căn nhà nhỏ vùng ngoại ô này.
Ngày của tôi thường bắt đầu từ rất sớm, khi trời còn chưa tỏ mặt người, và sương sớm vẫn còn giăng mắc trên những cánh đồng lúa. Khác với sự ồn ào, bụi bặm của thành phố, không khí buổi sớm ở vùng quê trong lành đến lạ thường. Tôi thường ra khoảng sân đất nhỏ trước nhà, hoặc tìm đến một gò đất cao nhìn ra cánh đồng, ngồi xếp bằng tĩnh tọa.
Đây là thời khắc đất trời giao hòa, linh khí tinh thuần nhất trong ngày. Tôi nhắm mắt, hít thở thật sâu, cố gắng hòa mình vào nhịp điệu của tự nhiên. Thiên Nhãn khẽ vận, cảm nhận từng dòng chảy năng lượng của đất, của cây cỏ, của gió, của sương.
Tôi nhớ lại đạo lý cân bằng từ bàn cờ đá, cố gắng điều hòa hai luồng năng lượng trong cơ thể. Thiên Nhãn như dòng nước mát lành, nhẹ nhàng bao bọc, xoa dịu sự hỗn loạn, cuồng bạo của Hắc Ảnh. Hắc Ảnh, dù vẫn còn bản tính âm u, nhưng dường như cũng cảm nhận được sự dẫn dắt ôn hòa, nó không còn gào thét phản kháng dữ dội nữa, mà dần thu liễm lại, trở nên tĩnh lặng hơn, ẩn sâu hơn. Quá trình này vẫn còn rất khó khăn, đòi hỏi sự tập trung cao độ và ý chí kiên định, nhưng mỗi ngày, tôi lại cảm nhận được một chút tiến bộ nhỏ bé, một sự cân bằng mong manh hơn đang dần hình thành.
Khi mặt trời lên cao hơn, xua tan đi lớp sương mờ, cũng là lúc Hoàng Sơn và Phan Hương thức giấc. Hoàng Sơn thường dậy sớm tập luyện vài bài quyền cước cơ bản để giãn gân cốt, vết thương trên ngực hắn đã gần như lành hẳn, chỉ còn lại một vết sẹo mờ. Hắn không còn mang vẻ mệt mỏi, lo âu như trước, tinh thần phấn chấn và lạc quan hơn nhiều.
Phan Hương thì đảm nhận công việc nội trợ. Dù xuất thân tiểu thư, nhưng cô bé lại rất nhanh nhẹn và ham học hỏi. Dưới sự "hướng dẫn" đôi khi hơi vụng về của Hoàng Sơn vốn cũng là người không giỏi bếp núc, cô đã có thể tự tay chuẩn bị những bữa ăn sáng đơn giản nhưng tươm tất cho cả ba người khi thì bát cháo trắng nóng hổi ăn cùng muối vừng, khi lại là đĩa xôi lạc thơm dẻo, hay đơn giản là vài củ khoai lang luộc bốc khói.
Hoàng Sơn vẫn là người nói nhiều nhất, kể đủ thứ chuyện trên trời dưới đất mà hắn nghe ngóng được khi ra ngoài chợ mua đồ. Phan Hương thì ít nói hơn, nhưng nụ cười đã xuất hiện thường xuyên hơn trên môi cô, ánh mắt không còn vẻ sợ hãi, rụt rè như trước. Cô thỉnh thoảng lại tò mò hỏi tôi hoặc Hoàng Sơn về những vùng đất chúng tôi đã đi qua, về những chuyện kỳ lạ trong thế giới siêu nhiên mà chúng tôi biết.
"Anh Hạ này," một buổi sáng, khi đang ăn xôi, Phan Hương đột nhiên hỏi tôi, "Em thấy… năng lượng trong người em… hình như cũng bớt xung đột hơn khi ở đây. Nó vẫn còn nóng, nhưng không còn cảm giác muốn thiêu đốt mọi thứ nữa."
Tôi gật đầu. "Năng lượng nơi đây ôn hòa, lại gần núi Phật Tích linh thiêng. Có lẽ nó giúp cân bằng lại phần nào khí tức trong người em. Nhưng đừng chủ quan. Hãy cố gắng tập trung giữ vững tinh thần."
"Vâng ạ," Phan Hương đáp, ánh mắt ánh lên vẻ quyết tâm. "Em cũng đang cố gắng tập điều hòa hơi thở theo cách anh chỉ."
Thiên phú của cô ấy thực sự đáng kinh ngạc. Chỉ cần tôi gợi ý vài nguyên tắc cơ bản về việc cảm nhận và dẫn dắt năng lượng nội tại, cô ấy đã có thể tự mình mày mò và thực hành một cách hiệu quả. Nếu không có cái phong ấn kia, có lẽ thực lực của cô ấy bây giờ đã rất đáng gờm.
Sau bữa sáng, mỗi người lại có công việc riêng của mình.
Hoàng Sơn, dù vết thương đã lành, nhưng vẫn còn cần nghỉ ngơi. Tuy nhiên, với bản tính năng động, hắn không chịu ngồi yên một chỗ. Thỉnh thoảng hắn lại ra ngoài thị trấn gần đó, tìm vài công việc làm thêm lặt vặt khi thì phụ khuân vác ở bến xe, khi lại giúp người ta sửa chữa vài món đồ điện tử đơn giản theo hắn chia sẻ thì đây là những kỹ năng hắn học được hồi còn lang bạt. Hắn nói là để kiếm thêm chút tiền trang trải chi phí, dù tôi đã nói chiếc thẻ của Lê Vân Khánh đủ dùng cho cả ba. Tôi hiểu, hắn muốn tự mình đóng góp, không muốn trở thành gánh nặng. Tôi cũng không ngăn cản, chỉ dặn hắn cẩn thận, tránh gây chuyện thị phi.
Phan Hương thì ở nhà lo việc dọn dẹp, giặt giũ, cơm nước. Ban đầu tôi và Hoàng Sơn đều ái ngại, không muốn cô phải làm những việc này. Nhưng Phan Hương lại tỏ ra rất vui vẻ và tự nguyện. "Ở nhà em chẳng bao giờ được tự tay làm gì cả," cô bé nói, tay vẫn thoăn thoắt lau nhà. "Làm việc nhà thế này cũng là một cách để em tập trung tinh thần, quên đi những chuyện không vui. Với lại, em cũng muốn góp chút sức mình." Nhìn cô bé vui vẻ tôi cũng thấy an lòng hơn. Ít nhất, cuộc sống tạm thời ổn định này đang giúp cô dần lấy lại sự cân bằng.
Còn tôi, phần lớn thời gian ban ngày tôi dành cho việc luyện tập rèn luyện khả năng kiểm soát đối với Thiên Nhãn và Hắc Ảnh.
Tôi thường một mình lên núi Phật Tích, tìm đến khu vực bàn cờ đá yên tĩnh. Ngồi tĩnh tọa bên cạnh bàn cờ, tôi cố gắng cảm nhận sự vận hành hài hòa của năng lượng Âm Dương nơi đây, cố gắng mô phỏng lại sự cân bằng đó bên trong cơ thể mình. Tôi thử dùng Thiên Nhãn để "nhìn" sâu hơn vào cấu trúc của Hắc Ảnh, để thấu hiểu bản chất hỗn loạn của nó. Tôi thử dùng một phần rất nhỏ năng lượng Hắc Ảnh để bao bọc, che giấu khí tức của Thiên Nhãn, hoặc ngược lại, dùng Thiên Nhãn để soi chiếu, dẫn dắt Hắc Ảnh thực hiện những việc đòi hỏi sự tinh tế, như nhặt một chiếc lá rơi mà không làm nó nát vụn.
Quá trình này vô cùng khó khăn và chậm chạp. Vẫn có những lúc hai luồng năng lượng xung đột, gây ra cơn đau đầu hoặc cảm giác lạnh lẽo khó chịu. Có những lúc Hắc Ảnh gào thét đòi tự do, muốn bùng nổ hủy diệt. Nhưng tôi kiên trì. Tôi nhớ lời lão trụ trì, nhớ lời Tiên sinh Lâm. Cân bằng, thấu hiểu, chấp nhận.
Thi thoảng, để có thêm chi phí sinh hoạt, mặc dù thẻ của Lê Vân Khánh đưa vẫn còn khá nhiều tiền, nhưng tôi muốn độc lập hơn và cũng không muốn quá phụ thuộc vào "Bà Chúa Chợ Đen" và để giữ liên lạc với thế giới ngầm, tôi lại dùng thiết bị liên lạc ẩn danh để nhận những nhiệm vụ nhỏ từ các nhánh liên lạc của Lê Vân Khánh ở khu vực phía Bắc. Thường tôi chỉ làm mấy việc như tìm kiếm thông tin về một món đồ cổ bị thất lạc, theo dõi một nhân vật khả nghi nào đó, hoặc vận chuyển một món hàng "đặc biệt" đến một địa điểm bí mật.
Những nhiệm vụ này khá đơn giản với khả năng của tôi, lại giúp tôi có thêm thu nhập và quan trọng hơn, là duy trì mối liên hệ với mạng lưới của Lê Vân Khánh, để khi cần, tôi có thể yêu cầu những thông tin quan trọng hơn. Tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách kín đáo và hiệu quả, nhưng vẫn giữ một khoảng cách nhất định, không để mình bị cuốn quá sâu vào những ân oán của thế giới ngầm. Hoàng Sơn và Phan Hương biết tôi thỉnh thoảng "đi làm việc riêng", nhưng tôi không kể chi tiết cho họ biết. Có những chuyện, tốt nhất chỉ nên một mình tôi gánh vác.
Khi mặt trời lặn sau những rặng núi, Hoàng Sơn cũng kết thúc công việc làm thêm, trở về nhà với chút tiền công ít ỏi nhưng đầy vẻ tự hào. Phan Hương cũng đã chuẩn bị xong bữa cơm tối đơn giản.
Ba người chúng tôi lại quây quần bên mâm cơm nhỏ trong gian bếp đơn sơ. Mùi thức ăn nóng hổi, tiếng cười nói rôm rả của Hoàng Sơn, nụ cười hiền dịu của Phan Hương… tất cả tạo nên một khung cảnh gia đình ấm áp mà tôi đã thiếu vắng từ lâu. Chúng tôi chia sẻ những câu chuyện trong ngày, Hoàng Sơn kể về những vị khách thú vị hắn gặp ở thị trấn, Phan Hương khoe món ăn mới học được, còn tôi thì kể vài câu chuyện vui lặt vặt mà tôi quan sát được trong thành phố.
Sau bữa tối, đôi khi chúng tôi cùng nhau xem một chương trình giải trí trên thiết bị chiếu hình ba chiều cũ kỹ, hoặc Hoàng Sơn lại lôi đàn nguyệt ra gảy vài bản nhạc vui tai, tôi không ngờ hắn có thể chơi được nhạc cụ đấy. Phan Hương thì thường ngồi lặng lẽ bên cửa sổ, đọc một cuốn sách nào đó hoặc đơn giản chỉ là ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao trên đỉnh núi.
Gió đông bắc bắt đầu thổi về, mang theo cái lạnh hanh hao đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ khi đất trời chuyển mình sang đông. Ba tháng trôi qua nhanh tựa bóng câu qua cửa sổ kể từ ngày chúng tôi tìm đến căn nhà nhỏ vùng ngoại ô Bắc Ninh này. Ba tháng không quá dài, nhưng đủ để nhiều thứ thay đổi.
Đầu tháng 12 năm 2278, thời tiết bắt đầu trở lạnh.
Cuộc sống tạm gọi là "ẩn cư" của chúng tôi diễn ra khá đều đặn. Mỗi sớm mai, tôi vẫn tìm đến không gian yên tĩnh trên gò đất cao nhìn ra cánh đồng đã ngả màu vàng úa sau vụ gặt, tĩnh tâm điều hòa hai luồng năng lượng. Quá trình này không còn gian nan và đầy đau đớn như trước. Nhờ sự lĩnh ngộ đạo lý cân bằng từ bàn cờ đá trên núi Phật Tích và những tháng ngày kiên trì tập luyện, Thiên Nhãn và Hắc Ảnh trong tôi dường như đã tìm thấy một điểm dung hòa tương đối. Chúng vẫn là hai thực thể riêng biệt, đối lập, nhưng không còn xung đột dữ dội.
Phan Hương, có lẽ mới là người có sự tiến bộ vượt bậc nhất trong ba tháng qua. Với sự chỉ dẫn ban đầu của tôi về nguyên tắc cảm nhận và điều hòa năng lượng, cộng thêm thiên phú tu luyện đáng kinh ngạc của mình, cô bé đã nhanh chóng nắm bắt và tự mình phát triển khả năng kiểm soát năng lực một cách đáng nể. Ngọn lửa trong người cô không còn bùng phát hỗn loạn mỗi khi cảm xúc dao động nữa. Cô đã học được cách dẫn dắt nó, điều khiển nhiệt độ, thậm chí tạo ra những hình dạng lửa đơn giản theo ý muốn. Phong ấn âm hàn vẫn còn đó, thỉnh thoảng vẫn gây ra những cơn đau âm ỉ, nhưng sự xung đột đã giảm đi đáng kể. Cô bé giờ đây đã có thể tự tin hơn khi sử dụng năng lực của mình, không còn vẻ sợ hãi, rụt rè như trước. Gương mặt thanh tú không còn u uất, thay vào đó là sự kiên định và ánh mắt sáng ngời của một người đã tìm thấy hy vọng và con đường phía trước. Quả đúng là tài năng thiên bẩm, chỉ thiếu môi trường và sự dẫn dắt đúng đắn mà thôi.
Hoàng Sơn cũng đã hoàn toàn bình phục sau vết thương nặng. Không còn gánh nặng từ mầm rễ ký sinh, hắn dành nhiều thời gian hơn để tập luyện, làm quen với sức mạnh bóng tối thực sự của mình. Dưới sự góp ý có phần vụng về của tôi về cách kiểm soát năng lượng, khả năng chiến đấu của hắn cũng trở nên tinh tế hơn, không còn hoàn toàn dựa vào sức mạnh bản năng như trước.
Cuộc sống bình dị vùng ngoại ô tuy yên tĩnh, nhưng chúng tôi đều biết, đây chỉ là một trạm dừng chân tạm thời. Mối nguy hiểm từ "Dự án Chim Ưng" vẫn lơ lửng như một đám mây đen. Hành trình về phương Nam, dù đã thay đổi lộ trình, vẫn là mục tiêu mà tôi chưa thể từ bỏ. Và quan trọng hơn, vấn đề phong ấn của Phan Hương vẫn cần được giải quyết triệt để. Anh Hàn vẫn chưa có tin tức gì mới, có lẽ việc tìm kiếm thông tin về loại phong ấn cổ xưa này thực sự rất khó khăn.
Vào một buổi sáng đầu đông, sau buổi tĩnh tọa quen thuộc, tôi quyết định đã đến lúc phải tiếp tục lên đường. Không khí se lạnh, bầu trời trong xanh nhưng có chút gì đó khô khốc.
"Sơn huynh, Hương," tôi gọi hai người bạn lại sau bữa sáng đơn giản với khoai lang nướng và nước chè xanh nóng hổi. "Ta nghĩ… đã đến lúc chúng ta tiếp tục hành trình rồi."
Hoàng Sơn và Phan Hương nhìn nhau, rồi cùng gật đầu. Họ cũng cảm nhận được rằng, thời gian nghỉ ngơi đã đủ.
"Huynh đã quyết định được hướng đi chưa?" Hoàng Sơn hỏi.
"Chúng ta sẽ tiếp tục đi về phía Nam," tôi đáp. "Nhưng sẽ không đi theo đường quốc lộ chính nữa. Ta muốn đi qua những vùng đất ít người biết đến hơn, có thể sẽ chậm hơn, vất vả hơn, nhưng có lẽ sẽ an toàn hơn, và biết đâu, lại có thêm những cơ duyên bất ngờ." Tôi nghĩ đến những nơi linh khí đặc biệt hoặc có nhiều lời đồn đại về dị tượng, có lẽ đó là những nơi thích hợp để tôi rèn luyện và tìm kiếm manh mối.
"Vậy chúng ta đi đâu trước?" Phan Hương hỏi, ánh mắt ánh lên sự háo hức pha lẫn chút lo lắng.
Tôi trầm ngâm một lát, nhìn về phía Nam xa xăm. "Có lẽ… chúng ta nên ghé qua Nghệ An trước."
Hoàng Sơn gật gù. "À, làng Sen quê Bác phải không? Ta cũng nghe danh đã lâu."
Phan Hương cũng tỏ vẻ đồng tình. "Đến đó thắp nén hương tưởng niệm Người cũng là điều nên làm."
Từ nhỏ đến lớn, tôi không thực sự sùng bái hay thần tượng một ai cụ thể. Thế giới này có quá nhiều anh hùng, quá nhiều vĩ nhân, nhưng cũng đầy rẫy những góc khuất và sự giả tạo. Nhưng có một người, duy nhất một người, mà mỗi khi nhắc đến tên, hay nhìn thấy hình ảnh, lòng tôi lại dâng lên một sự kính trọng và ngưỡng mộ sâu sắc, gần như là tuyệt đối. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù đã cách xa hàng thế kỷ, dù thế giới đã thay đổi quá nhiều, nhưng tư tưởng, đạo đức và sự hy sinh vĩ đại của Người vẫn luôn là một ngọn hải đăng soi sáng, một tấm gương mà tôi luôn tâm niệm noi theo. Vì vậy, trước khi bắt đầu một chặng đường mới đầy thử thách, tôi muốn được đến thăm quê hương của Người, thắp một nén tâm hương, bày tỏ lòng thành kính sâu sắc nhất.
"Vậy thì quyết định thế nhé," tôi nói. "Ngày mai, chúng ta sẽ chuẩn bị hành lý, rời khỏi nơi này, hướng về phía Nghệ An."
Ngày chuẩn bị rời đi, gió mùa đông bắc thổi mạnh hơn, mang theo cái lạnh khô hanh luồn qua khe cửa. Bầu trời không còn trong xanh như những ngày thu trước đó, mà chuyển sang màu xám bạc, đôi khi lất phất vài hạt mưa phùn không đủ làm ướt áo. Chúng tôi quyết định dành cả ngày hôm đó để chuẩn bị cho chuyến đi dài ngày sắp tới.
Buổi sáng, tôi cùng Hoàng Sơn ra khu chợ thị trấn gần nhất. Dù đã gần trưa nhưng chợ vẫn còn khá đông đúc. Tiếng người mua kẻ bán mặc cả ồn ã, tiếng xe máy cũ nổ lụp bụp, mùi hàng quán thơm phức quyện vào mùi bùn đất đặc trưng của vùng nông thôn.
“Trước tiên phải kiếm thêm ít đồ ấm đã,” Hoàng Sơn nói, kéo tôi về phía một sạp hàng quần áo trông khá tươm tất. “Mấy bộ đồ CUI chuẩn bị cho huynh trông thì đẹp thật đấy, nhưng mà mỏng quá, lại toàn màu tối thui, đi đường vào Nam lỡ gặp mưa lạnh thì chết cóng à?” Hắn nói rồi tự mình chọn lấy vài chiếc áo khoác gió dày dặn, loại chống thấm nước và giữ nhiệt tốt, và mấy đôi tất len dày.
Tôi nhìn lại bộ đồ trên người mình, rồi lại nhìn sang Hoàng Sơn đang hào hứng chọn đồ, cũng gật đầu đồng ý. Đúng là hành trình sắp tới thời tiết khó lường, chuẩn bị thêm quần áo ấm là cần thiết. Tôi cũng chọn cho mình một chiếc áo khoác tương tự, màu xanh rêu trầm, chất liệu bền chắc, và thêm vài bộ quần áo giữ nhiệt bên trong. Chúng tôi cũng không quên chọn cho Phan Hương một chiếc áo khoác màu kem sữa, kiểu dáng đơn giản nhưng trông khá ấm áp và hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của cô bé.
Rời khỏi sạp quần áo, chúng tôi đi vào khu bán đồ khô và lương thực. “Phải mua thêm ít đồ ăn dự trữ,” tôi nói. “Đường đi sắp tới có thể sẽ qua nhiều vùng hẻo lánh, không phải lúc nào cũng có hàng quán.”
Hoàng Sơn gật đầu. “Đúng, phải mua nhiều lương khô vào. Loại nào càng cứng càng tốt, nhai cho đỡ buồn mồm.” Hắn với tay lấy mấy phong lương khô quân dụng loại cũ, trông đã hơi ngả màu.
Tôi lắc đầu cười. “Không cần cứng đến mức đó đâu. Mua ít bánh quy mặn, ruốc bông, kẹo gừng là được rồi. Với lại chuẩn bị thêm mấy bình nước lọc lớn nữa.” Tôi ưu tiên những loại thực phẩm gọn nhẹ, dễ bảo quản và cung cấp đủ năng lượng.
Ngoài lương thực, tôi cũng để ý tìm mua thêm vài vật dụng nhỏ hữu ích khác. Một cuộn dây dù bền chắc, vài chiếc bật lửa chống gió, một bộ dụng cụ sửa chữa đa năng nhỏ gọn, và một la bàn từ tính loại tốt mặc dù Hoàng Sơn đã có chiếc la bàn Pháp Khí kia, nhưng có thêm một cái dự phòng cũng không thừa, cẩn tắc vô áy náy mà.
Đang đi ngang qua một dãy hàng bán đồ lưu niệm và trang sức thủ công, ánh mắt tôi bất chợt dừng lại ở một gian hàng nhỏ ven đường. Gian hàng không lớn, chỉ bày biện vài món đồ làm từ ngọc và đá quý trông khá đơn sơ, nhưng lại có một món đồ khiến tôi chú ý. Đó là một chiếc trâm cài tóc bằng ngọc bích màu xanh lục nhạt, được chạm khắc tinh xảo thành hình một đóa hoa sen đang hé nở.
Không hiểu sao, nhìn chiếc trâm ngọc này, tôi lại nghĩ đến Phan Hương. Màu xanh lục dịu nhẹ này dường như rất hợp với mái tóc đỏ rực và đôi mắt màu hổ phách của cô ấy.
“Ông chủ, cho cháu xem chiếc trâm này được không ạ?” Tôi chỉ tay về phía chiếc trâm ngọc.
Người bán hàng, một ông lão khắc khổ, ngẩng đầu lên, mỉm cười hiền hậu. “Được chứ cậu. Trâm này làm bằng ngọc bích tự nhiên đó, chạm khắc thủ công cả đấy.” Ông cẩn thận lấy chiếc trâm ra khỏi tủ kính, đưa cho tôi xem.
Tôi cầm chiếc trâm trên tay, cảm nhận sự mát lạnh và mịn màng của viên ngọc. Chạm khắc tuy không quá cầu kỳ nhưng lại rất tinh tế, từng đường nét mềm mại, sống động. Thiên Nhãn khẽ vận, tôi cảm nhận được một luồng linh khí rất yếu, rất ôn hòa tỏa ra từ viên ngọc. Đây không phải Dị Vật, chỉ đơn thuần là một viên ngọc tốt, có lẽ đã được đeo bởi một người có tâm tính hiền hòa nào đó trong quá khứ, nên còn lưu lại chút năng lượng thiện lành.
“Đẹp quá…” Tôi lẩm bẩm.
“Cậu mua tặng cho bạn gái hả?” Ông lão cười tủm tỉm hỏi.
Tôi lắc đầu. “Dạ không một người em gái thôi.”
Tôi vui vẻ trả tiền, cẩn thận cất chiếc trâm ngọc vào một chiếc hộp nhỏ trong ba lô. Hy vọng món quà nhỏ này có thể mang lại chút niềm vui và may mắn cho Phan Hương trên chặng đường sắp tới.
Hoàng Sơn đứng bên cạnh, nhìn tôi với ánh mắt trêu chọc. “Ồ! Lý Hạ huynh cũng biết galang gớm nhỉ? Mua quà tặng mỹ nhân nữa cơ đấy.”
Tôi lườm hắn một cái. “Nói năng linh tinh.”
Chúng tôi mua sắm thêm một vài thứ lặt vặt nữa rồi trở về nhà. Hoàng Sơn thì hào hứng sắp xếp lại đống đồ dùng chiến đấu của riêng hắn, mấy con dao găm bóng tối hắn tự ngưng tụ từ năng lượng của mình trông khá thô kệch nhưng có vẻ sắc bén, vài quả cầu khói đặc chế không biết hắn kiếm đâu ra, và cả chiếc la bàn Pháp Khí gia truyền hắn luôn mang bên mình. Hắn cẩn thận lau chùi, kiểm tra từng món, bộ dạng nghiêm túc như một lão tướng chuẩn bị ra trận.
Tôi thì ngồi một góc, lấy vò rượu nhỏ của ông Bảy Lịch và bản thảo cũ ra sắp xếp lại vào trong ba lô một cách cẩn thận.
Buổi chiều, tôi cùng Phan Hương đi chợ lần cuối, mua thêm ít rau củ tươi và thịt để chuẩn bị bữa cơm tối chia tay vùng đất Bắc Ninh này. Phan Hương tỏ ra khá vui vẻ, cô bé líu lo kể về những dự định trong tương lai, về mong muốn được kiểm soát hoàn toàn năng lực, được tự do đi đây đó khám phá thế giới như tôi và Hoàng Sơn. Nhìn nụ cười hồn nhiên trên môi cô, tôi không khỏi cảm thấy một chút trách nhiệm nặng nề. Liệu tôi có thể thực sự giúp được cô ấy? Liệu hành trình phía trước có quá nguy hiểm đối với một cô gái còn quá trẻ và mang trong mình nhiều tổn thương như vậy?
Đêm xuống, tôi không ngủ được. Tôi ra sân sau, ngồi lặng lẽ dưới ánh trăng non đầu tháng. Gió đông bắc vẫn thổi, mang theo hơi lạnh và tiếng xào xạc của lá khô. Tôi lấy bản thảo cũ của lão nhân từ trong áo ra, lật giở từng trang giấy ố vàng dưới ánh trăng bạc.
Tôi miên man theo dòng chữ, đến khi sương đêm đã thấm lạnh vào vai áo mới giật mình nhận ra trời đã gần sáng. Tôi gấp cuốn bản thảo lại, cất kỹ vào lòng, rồi lặng lẽ quay vào nhà. Không khí tĩnh lặng, chỉ có tiếng thở đều đều của Hoàng Sơn và Phan Hương vọng ra từ hai gian phòng nhỏ. Tôi khẽ mỉm cười. Ít nhất, họ đã có một giấc ngủ yên bình trước ngày lên đường.
Sáng hôm sau, chúng tôi thu dọn hành lý đơn giản, kiểm tra lại mọi thứ một lần cuối. Hoàng Sơn nhét mấy con dao găm Hắc Ảnh thô kệch vào thắt lưng, vỗ vỗ chiếc la bàn gia truyền trong túi áo, vẻ mặt đầy quyết tâm. Phan Hương thì mặc chiếc áo khoác màu kem sữa ấm áp mà chúng tôi mua tặng, mái tóc đỏ rực được buộc gọn gàng sau gáy. Cô bé nhìn chiếc trâm ngọc hình hoa sen tôi tặng hôm trước đang cài trên mái tóc, rồi ngẩng lên nhìn tôi, đôi mắt hổ phách ánh lên sự biết ơn và một niềm tin mới mẻ. Chiếc trâm ngọc xanh biếc dường như rất hợp với cô, tôn lên vẻ thanh tú và kiên cường tiềm ẩn.
Chúng tôi chào tạm biệt chủ nhà tốt bụng, rồi ba người cất bước rời khỏi căn nhà nhỏ đã gắn bó suốt ba tháng qua, hướng về phía bến xe.
Chuyến xe khách đi về phía Nghệ An không quá đông đúc. Chúng tôi chọn hàng ghế cuối xe để có không gian riêng tư hơn. Xe lăn bánh, rời xa vùng ngoại ô Bắc Ninh yên bình, cảnh vật hai bên đường lại bắt đầu thay đổi. Những cánh đồng lúa đã gặt trơ gốc rạ, những làng quê cổ kính với mái đình cong cong, những dòng sông nhỏ hiền hòa uốn lượn… Bầu không khí của vùng đồng bằng Bắc Bộ mang một nét trầm lắng, khác hẳn sự hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc hay sự sôi động của thành phố cảng.
"Nghệ An... quê Bác," Hoàng Sơn lẩm bẩm, mắt nhìn ra cửa sổ, vẻ mặt có chút thành kính lạ thường. "Hồi nhỏ ta cũng được nghe kể nhiều chuyện về Người lắm."
Phan Hương cũng gật đầu đồng tình. "Em cũng vậy. Đọc sách sử, thấy sự nghiệp của Người thật vĩ đại. Em rất muốn được đến thăm làng Sen một lần."
Ngưỡng mộ một người phàm đã chết cả mấy trăm năm? Hắc Ảnh lại thì thầm, giọng điệu có vẻ khó hiểu. Sao không ngưỡng mộ sức mạnh vĩnh hằng của bóng tối?
Có những thứ còn mạnh hơn cả bóng tối, tôi đáp lại. Đó là ý chí, là niềm tin, là tình yêu thương con người. Những thứ mà ngươi không bao giờ hiểu được.
Xe đi qua Ninh Bình, với những dãy núi đá vôi trùng điệp soi bóng xuống dòng sông Hoàng Long uốn khúc, cảnh sắc non nước hữu tình tựa như một bức tranh thủy mặc khổng lồ. Hoàng Sơn và Phan Hương trầm trồ trước vẻ đẹp của Tam Cốc, Bích Động nhìn từ xa. Tôi thì lại khẽ vận Thiên Nhãn, cảm nhận những luồng linh khí ôn hòa, thanh tịnh tỏa ra từ những ngôi chùa cổ ẩn mình nơi vách núi.
Khi xe dừng nghỉ ở một thị trấn nhỏ ven đường để hành khách ăn trưa, chúng tôi chọn một quán cơm bình dân, gọi những món ăn địa phương đơn giản. Hoàng Sơn hào hứng thử món thịt dê núi nổi tiếng, vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon. Phan Hương thì thích thú với món cơm cháy giòn rụm ăn kèm nước sốt đậm đà. Tôi gọi cho mình một bát miến lươn, hương vị cũng khá đặc biệt.
Đang ăn uống vui vẻ, tôi bỗng cảm nhận được một luồng khí tức khác thường từ chiếc bàn ăn ở góc quán. Một người đàn ông trung niên, ăn mặc xuề xòa, đang ngồi một mình, lặng lẽ ăn bát cơm trắng với mấy miếng đậu phụ luộc. Dáng vẻ ông ta trông rất bình thường, thậm chí có phần khắc khổ. Nhưng Thiên Nhãn của tôi lại "nhìn" thấy một thứ gì đó ẩn giấu bên trong. Một luồng năng lượng rất yếu, gần như không đáng kể, nhưng lại có cấu trúc rất lạ, không giống năng lượng của người thường, cũng không giống Biến Chủng hay Dị Chủng tôi từng gặp. Nó giống như… một thứ năng lượng bị phong ấn, bị kìm nén một cách cực đoan.
Tôi khẽ nhíu mày, đưa mắt quan sát người đàn ông kỹ hơn. Ông ta ăn rất chậm rãi, từ tốn, không hề để ý đến xung quanh. Đôi mắt ông ta hơi đục, nhìn xuống bát cơm, nhưng thỉnh thoảng lại ánh lên một tia sáng kỳ lạ, sắc bén, rồi lại nhanh chóng vụt tắt.
Tôi quyết định không tiếp cận. Người đàn ông này rõ ràng muốn che giấu thân phận, và tôi không muốn gây thêm rắc rối không cần thiết. Tôi chỉ lặng lẽ ghi nhớ hình dáng và khí tức đặc biệt của ông ta.
Sau bữa trưa, chúng tôi lại tiếp tục hành trình. Chuyến xe đi vào địa phận Nghệ An, vùng đất miền Trung đầy nắng và gió. Khung cảnh bắt đầu thay đổi, những cánh đồng lúa nhường chỗ cho những ngọn đồi thấp trọc, những bãi cát trắng chạy dài ven biển, và dòng sông Lam xanh trong uốn lượn giữa đôi bờ.
Xe dừng lại ở thành phố Vinh vào buổi chiều muộn. Thay vì tìm nhà nghỉ trong thành phố ồn ào, tôi đề nghị chúng tôi tìm đường về phía Nam Đàn, đến gần khu di tích làng Sen hơn. May mắn là có một thị trấn nhỏ cách đó không xa, có vài nhà nghỉ bình dân dành cho khách du lịch.
Chúng tôi thuê được hai phòng trọ nhỏ nhưng sạch sẽ trong một con ngõ yên tĩnh. Không khí ở đây trong lành, mang đậm hương vị đồng quê. Tối hôm đó, chúng tôi cùng nhau đi dạo quanh thị trấn, thưởng thức món cháo lươn Nghệ An nổi tiếng cay nồng, ấm áp.
Đêm xuống, gió đông khẽ lùa qua khe cửa sổ bằng gỗ đã cũ kỹ của nhà trọ, mang theo cái lạnh hanh hao của vùng quê Bắc Trung Bộ. Tôi nằm trên chiếc giường tre kêu kẽo kẹt theo từng cử động nhỏ, trằn trọc không sao ngủ được. Không phải vì lạ chỗ, hay vì tiếng côn trùng rỉ rả ngoài kia. Mà là một cảm giác nao nao, bồi hồi khó tả khi nghĩ rằng, chỉ ngày mai thôi, mình sẽ được đặt chân lên mảnh đất Kim Liên - quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một cảm giác vừa thiêng liêng, thành kính, lại vừa xen lẫn chút hồi hộp mong chờ.
Ngươi lại nghĩ về người phàm đó sao? Tiếng Hắc Ảnh bất chợt vang lên trong tâm thức, giọng điệu có vẻ không hài lòng và chút khó hiểu. Hắn ta có gì đặc biệt chứ? Chết đã mấy trăm năm rồi. Chẳng qua cũng chỉ là một con người… như bao kẻ khác đã tan biến vào cát bụi.
Có những con người, ý chí và tinh thần của họ còn mạnh hơn cả thần thánh, vượt qua cả giới hạn của sự sống và cái chết, tôi bình thản đáp lại trong tâm trí. Sức mạnh không chỉ nằm ở năng lực hủy diệt hay sự tồn tại vĩnh cửu. Và Người… là một trong số đó, một người mà lý tưởng và di sản vẫn sống mãi, vẫn soi đường cho cả một dân tộc, ngay cả khi thể xác đã không còn.
Hừ, lý lẽ của kẻ yếu, Hắc Ảnh khịt mũi, rồi lại im lặng, có lẽ nó không muốn tranh cãi về những điều nó không thể nào lĩnh hội được.
Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm hơn thường lệ. Hoàng Sơn không còn vẻ ngái ngủ hay càu nhàu như mọi khi, hắn dậy từ rất sớm, tự mình chuẩn bị trang phục chỉnh tề nhất có thể, chiếc áo sơ mi cũ nhưng phẳng phiu, chiếc quần tây duy nhất hắn mang theo. Phan Hương cũng chọn một bộ váy dài màu xanh nhạt giản dị, mái tóc đỏ được búi gọn gàng, cài thêm chiếc trâm ngọc hình hoa sen tôi tặng, trông cô bé thanh lịch và trang nhã hơn hẳn. Có một sự nghiêm túc và thành kính bao trùm lấy cả ba người.
Chúng tôi thuê một chiếc xe điện nhỏ, nhờ người lái xe chở đến khu di tích làng Sen. Xe chạy bon bon trên con đường nhựa phẳng lì dẫn vào xã Kim Liên, hai bên đường là những cánh đồng lúa đã gặt xong, chỉ còn trơ gốc rạ vàng óng dưới ánh nắng ban mai. Xa xa, dãy núi Đại Huệ hiện lên sừng sững trong màn sương mỏng, như một bức bình phong che chở cho mảnh đất địa linh nhân kiệt này.
Bước chân xuống xe, cảm giác đầu tiên của tôi là sự bình yên đến lạ thường. Không khí trong lành, mang đậm hương lúa mới và mùi đất ẩm. Không có sự ồn ào, náo nhiệt như các khu di tích du lịch khác, thay vào đó là một sự tĩnh lặng, trang nghiêm, khiến lòng người bất giác cũng lắng lại.
Chúng tôi đi bộ trên con đường làng nhỏ lát gạch nghiêng, hai bên là hàng rào dâm bụt đỏ tươi đang mùa nở rộ. Tiếng trẻ con nô đùa đâu đó vọng lại từ những ngôi nhà tranh, tiếng gà gáy trưa lảnh lót. Vài cụ già đang ngồi trước hiên nhà phơi nắng, thấy chúng tôi là khách lạ liền nở nụ cười hiền hậu, gật đầu chào.
"Các cháu từ xa đến thăm quê Bác đấy à?" Một bà cụ tóc bạc phơ, răng đen nhánh, đang ngồi têm trầu bên vệ đường, lên tiếng hỏi.
"Dạ vâng ạ," Phan Hương lễ phép đáp. "Chúng cháu ở Bắc Ninh vào đây ạ."
"Ui chà, xa thế cơ à?" Bà cụ cười móm mém. "Thế vào thăm nhà Bác chưa? Cứ đi thẳng đường này, qua cái ao sen lớn là tới đấy. Trong đó có các cô hướng dẫn viên kể chuyện xưa hay lắm."
"Dạ, cháu cảm ơn bà." Hoàng Sơn cũng nhanh nhảu đáp lời.
Chúng tôi cảm ơn bà cụ rồi tiếp tục đi. Con đường làng rợp bóng mát dưới những hàng cây nhãn, cây vải cổ thụ. Chúng tôi đi qua giếng Cốc, nơi có tảng đá lớn mà tương truyền Bác và bạn bè thường ngồi nghỉ chân. Làn nước giếng trong vắt, soi bóng mây trời. Hoàng Sơn tò mò múc thử một gàu nước lên uống. "Mát quá đi." Hắn tấm tắc khen.
Rồi chúng tôi đến trước ngôi nhà tranh ba gian đơn sơ của gia đình cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngôi nhà nằm nép mình dưới bóng cây mít và cây bưởi sum suê, xung quanh là hàng rào dâm bụt và mảnh vườn nhỏ trồng rau, khoai. Gian nhà không lớn, chỉ có ba gian nhỏ, tường trình đất, mái lợp tranh đã cũ kỹ. Mộc mạc, giản dị, nhưng lại toát lên một vẻ trang nghiêm, thanh bạch khó tả.
Một cô hướng dẫn viên trẻ tuổi, mặc áo dài truyền thống màu xanh lam, thấy chúng tôi đến liền niềm nở đón tiếp. "Chào mừng quý khách đã đến thăm Khu di tích Kim Liên, quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh." Cô mỉm cười dịu dàng. "Đây là ngôi nhà nơi Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã sống trong những năm tháng niên thiếu cùng gia đình."
Chúng tôi lặng lẽ theo chân cô hướng dẫn viên bước vào trong nhà. Gian giữa là nơi đặt bàn thờ gia tiên, trên tường treo những bức ảnh đen trắng đã ngả màu thời gian của cụ Phó bảng, bà Hoàng Thị Loan và các anh chị em của Bác. Gian bên cạnh là phòng ngủ và nơi học tập của hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung. Đồ đạc trong nhà vô cùng giản dị: chiếc phản gỗ, bộ tràng kỷ tre, chiếc rương gỗ đựng sách vở, chiếc đèn dầu nhỏ… tất cả đều nhuốm màu thời gian, gợi nhớ về một cuộc sống thanh bần nhưng đầy ý chí và khát vọng vươn lên.
Cô hướng dẫn viên bắt đầu kể về những câu chuyện gắn liền với ngôi nhà, về tuổi thơ của Bác, về những năm tháng miệt mài đèn sách, về tấm lòng hiếu thảo của Người đối với cha mẹ, về tình anh em sâu nặng, và về những trăn trở đầu tiên của Người về vận mệnh non sông đất nước. Giọng kể của cô nhẹ nhàng, truyền cảm, khiến chúng tôi như được quay ngược thời gian, sống lại những năm tháng lịch sử ấy.
Hoàng Sơn và Phan Hương chăm chú lắng nghe, ánh mắt họ ánh lên sự xúc động và kính phục.
Sau khi nghe kể chuyện và đi thăm một vòng quanh ngôi nhà, chúng tôi ra trước bàn thờ gia tiên. Tôi lấy trong ba lô ra ba nén hương trầm đã chuẩn bị sẵn, cung kính thắp lên, rồi cùng Hoàng Sơn và Phan Hương thành kính cúi đầu, tưởng nhớ đến Bác và các bậc tiền nhân. Làn khói hương trầm thơm ngát bay lên, quyện vào không khí tĩnh lặng, mang theo lòng biết ơn sâu sắc của thế hệ hậu sinh.
Rời khỏi khu di tích Kim Liên khi mặt trời đã đứng bóng, tâm trạng của cả ba chúng tôi đều có chút thay đổi. Hoàng Sơn trầm ngâm hơn hẳn, hắn không còn nói cười ồn ào nữa, mà dường như đang suy nghĩ về điều gì đó. Phan Hương thì có vẻ thanh thản hơn, nỗi buồn trong mắt cô dường như vơi đi phần nào, thay vào đó là một sự bình yên và niềm tin mới mẻ. Chuyến đi này, tuy ngắn ngủi, nhưng đã mang lại những giá trị tinh thần quý báu cho cả ba chúng tôi. Nó nhắc nhở chúng tôi về cội nguồn, về lòng biết ơn, và về những giá trị cốt lõi của con người.
Chúng tôi tìm một quán ăn nhỏ ven đường ở thị trấn Nam Đàn, thưởng thức món bánh mướt Diễn Châu nóng hổi và bát cháo lươn đậm đà hương vị xứ Nghệ một lần nữa.
"Thăm quê Bác xong, ta thấy… lòng nhẹ nhõm hẳn," Hoàng Sơn đột nhiên lên tiếng, phá vỡ sự im lặng, giọng trầm hơn thường lệ. "Nhìn cảnh vật, nghe chuyện xưa, mới thấy cuộc sống bây giờ của chúng ta… tuy còn nhiều khó khăn, nhưng đã tốt đẹp hơn xưa rất nhiều. Ông cha ta đã hy sinh quá nhiều để có được ngày hôm nay."
Phan Hương gật đầu đồng tình. "Vâng ạ. Em cũng thấy vậy, sự giản dị của Bác và gia đình Người… thực sự khiến em suy nghĩ rất nhiều về cuộc sống của mình."
Tôi mỉm cười. "Đúng vậy, có những tấm gương, dù đã khuất xa hàng thế kỷ, vẫn luôn tỏa sáng, soi đường cho chúng ta."
Ăn trưa xong, chúng tôi quay lại nhà nghỉ để lấy hành lý. Đã đến lúc tiếp tục hành trình.
"Giờ mình đi đâu tiếp, huynh?" Hoàng Sơn hỏi khi chúng tôi ra đến đầu ngõ. "Vẫn theo hướng vào Nam chứ?"
"Ừ," tôi gật đầu. "Nhưng sẽ không đi theo quốc lộ nữa. Chúng ta sẽ tìm đường đi tắt qua các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình… có lẽ sẽ vất vả hơn, nhưng an toàn hơn."
"Vậy bắt xe thế nào đây?" Phan Hương hỏi, nhìn quanh con đường thị trấn khá vắng vẻ.
"Để ta hỏi xem," Hoàng Sơn nhanh nhảu. Hắn chạy lại chỗ một bác xe ôm đang ngồi chờ khách dưới gốc cây phượng gần đó. Chiếc xe ôm của bác là loại xe bay đời cũ, chạy bằng pin năng lượng mặt trời, trông hơi ọp ẹp nhưng có vẻ vẫn còn hoạt động tốt.
"Bác ơi, cho con hỏi chút ạ," Hoàng Sơn lễ phép. "Bọn con muốn đi về phía Hà Tĩnh, đi đường nào gần nhất mà ít xe lớn qua lại hả bác?"
Bác xe ôm, một người đàn ông lớn tuổi, da ngăm đen, nheo mắt nhìn chúng tôi. "Đi Hà Tĩnh à? Mấy đứa đi du lịch hả?"
"Dạ… cũng gần giống vậy ạ," Hoàng Sơn đáp.
"Đi đường tắt thì phải qua mấy xã miền núi bên kia sông Lam kìa," bác xe ôm chỉ tay về phía xa. "Đường hơi khó đi đó, ít xe khách lắm. Hay mấy đứa thuê xe bác chở đi một đoạn?"
"Thuê xe bác luôn ạ?" Hoàng Sơn có vẻ ngạc nhiên. "Xe bác chở ba người với đồ đạc có được không?"
"Ối dào, tưởng gì," bác xe ôm cười xòa, vỗ vỗ vào chiếc xe bay cũ kỹ của mình. "Con ngựa sắt này của bác tuy già nhưng còn khỏe chán! Chở ba đứa tụi bây ngon ơ. Giá cả phải chăng thôi, không chặt chém như mấy hãng taxi công nghệ đâu."
Tôi tiến lại gần, khẽ vận Thiên Nhãn quan sát bác xe ôm. Khí tức bình thường, ánh mắt hiền hậu, không có dấu hiệu gì bất thường. Có lẽ chỉ là một người lao động chất phác muốn kiếm thêm chút thu nhập.
"Vậy giá thế nào ạ?" Tôi hỏi.
Bác xe ôm nói ra một con số khá hợp lý cho quãng đường khoảng năm, sáu mươi cây số đường núi.
Tôi gật đầu. "Được ạ. Vậy phiền bác chở giúp chúng cháu."
"Rồi, lên xe đi!" Bác xe ôm vui vẻ hẳn lên.
Ba người chúng tôi chất ba lô lên phía sau xe, rồi lần lượt ngồi vào khoang xe nhỏ. Hoàng Sơn ngồi phía trước, tôi và Phan Hương ngồi phía sau. Chiếc xe bay cũ kỹ kêu è è vài tiếng rồi từ từ cất cánh, bay là là trên mặt đường, rồi rẽ vào một con đường nhỏ hơn, hướng về phía dãy núi mờ xa.
Chiếc xe bay tuy cũ nhưng chạy khá êm, bay không quá cao, đủ để chúng tôi có thể ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường. Xe đi qua những cánh đồng lúa xanh mướt, những làng quê yên bình với mái ngói lô xô, những đàn trâu thung thăng gặm cỏ trên bờ đê. Khung cảnh thật thanh bình, khác hẳn sự căng thẳng, nguy hiểm mà chúng tôi vừa trải qua.
Trên đường đi, bác xe ôm khá vui tính, luôn miệng hỏi han và kể chuyện về vùng đất Nghệ An này. Bác kể về những món ăn ngon, những lễ hội truyền thống, những câu chuyện về lòng hiếu học và ý chí kiên cường của người dân xứ Nghệ. Hoàng Sơn cũng hào hứng bắt chuyện, hỏi bác đủ thứ về cuộc sống, về nghề xe ôm, về những đổi thay của quê hương. Phan Hương cũng thỉnh thoảng chen vào vài câu hỏi, vẻ mặt cô bé tò mò và thích thú.
"Thời buổi giờ khó khăn lắm các cháu ạ," bác xe ôm thở dài, giọng trầm xuống khi nói về cuộc sống. "Sau chiến tranh, nhà nước cố gắng lắm rồi, đời sống khá hơn xưa nhiều, nhưng làm ăn vẫn vất vả. Giá cả thì cứ tăng vù vù. Như bác đây, chạy xe cả ngày cũng chỉ đủ tiền đong gạo với đóng tiền học cho thằng út."
"Vậy sao bác không lên thành phố lớn tìm việc ạ?" Hoàng Sơn hỏi. "Nghe nói trên đó nhiều việc lắm mà."
"Ối dào, lên đó thì lấy gì mà sống?" Bác xe ôm lắc đầu. "Nhà cửa đắt đỏ, bon chen xô bồ. Bác già rồi, chỉ muốn ở quê cho yên ổn thôi. Có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, miễn là gia đình quây quần."
Tôi im lặng lắng nghe cuộc trò chuyện của họ, lòng có chút suy tư. Thế giới này, dù đã bước sang thế kỷ 23, dù công nghệ có phát triển đến đâu, thì những nỗi lo toan về cơm áo gạo tiền, những khát khao về một cuộc sống bình yên, giản dị dường như vẫn không thay đổi. Ngay cả trong cái thế giới phức tạp với những siêu năng lực, Dị Vật, và các thế lực siêu nhiên này, thì phần lớn con người vẫn chỉ là những người bình thường, với những ước mơ và nỗi lo rất đỗi đời thường.
Chiếc xe bay đưa chúng tôi qua sông Lam trên một cây cầu dây văng hiện đại, rồi bắt đầu men theo con đường nhỏ quanh co, dẫn vào vùng núi. Cảnh vật trở nên hoang sơ hơn, những ngôi nhà thưa thớt dần, nhường chỗ cho rừng cây rậm rạp và những vách đá tai mèo.
Đi được khoảng hai tiếng đồng hồ, bác xe ôm dừng lại ở một ngã ba đường mòn. "Đến đây thôi các cháu ạ," bác nói. "Đi tiếp vào trong là đường khó đi lắm, xe của bác không vào được nữa đâu. Các cháu cứ đi theo con đường mòn bên phải này, qua mấy quả đồi nữa là sang được địa phận Hà Tĩnh rồi đó."
Chúng tôi xuống xe, trả tiền và cảm ơn bác xe ôm tốt bụng. Bác cũng cười hiền, chúc chúng tôi thượng lộ bình an rồi quay xe trở về.
Ba người chúng tôi lại bắt đầu hành trình đi bộ. Con đường mòn nhỏ hẹp, lúc lên dốc, lúc xuống dốc, hai bên là rừng cây âm u. Hoàng Sơn và Phan Hương có vẻ hơi thấm mệt sau chuyến đi xe, nhưng vẫn cố gắng bước tiếp. Tôi đi sau cùng, lặng lẽ vận Thiên Nhãn quan sát xung quanh, đề phòng bất trắc. Năng lượng ở vùng núi này có vẻ khá ôn hòa, không có dấu hiệu gì bất thường.
Đi được khoảng một giờ, chúng tôi đến một khe suối nhỏ, nước trong vắt chảy qua những tảng đá cuội nhẵn bóng. Chúng tôi quyết định dừng lại nghỉ chân, rửa mặt và uống chút nước suối mát lạnh.
"Mệt quá!" Hoàng Sơn ngồi phịch xuống một tảng đá lớn, thở hổn hển. "Đi bộ đường núi này đúng là không dễ chút nào."
Phan Hương cũng ngồi xuống bên cạnh, lấy khăn tay lau mồ hôi trên trán. "Nhưng không khí ở đây trong lành thật đó." Cô bé hít một hơi thật sâu.
Tôi ngồi xuống đối diện họ, nhìn dòng suối trong veo lững lờ trôi. Tiếng suối chảy róc rách, tiếng chim hót líu lo trong rừng sâu, tiếng gió thổi qua kẽ lá… tạo nên một bản nhạc thiên nhiên êm đềm, giúp tâm hồn tôi thư thái lạ thường.
Trong khoảnh khắc yên bình hiếm hoi này, tôi chợt nhớ lại bản thảo cũ của lão nhân. Tôi lấy nó ra khỏi ba lô, lật giở từng trang dưới bóng mát của cây cổ thụ ven suối.
"Sách gì mà trông cũ thế huynh?" Hoàng Sơn tò mò quay đầu qua nhìn.
"Chỉ là một cuốn tiểu thuyết cũ thôi," tôi đáp, mỉm cười. "Một câu chuyện khá thú vị."
Ánh chiều tà bắt đầu nhuốm màu tím lên những đỉnh núi phía xa, và bóng tối nhanh chóng bao trùm lấy khu rừng già. Gió núi thổi mạnh hơn, mang theo hơi lạnh se sắt của đêm vùng cao. Chúng tôi nhận ra rằng không thể tiếp tục đi trong đêm tối ở địa hình hiểm trở này được.
"Trời sắp tối rồi," tôi nói, nhìn quanh khu vực ven suối khá bằng phẳng và kín đáo. "Có lẽ chúng ta nên dừng lại đây, cắm trại qua đêm."
Hoàng Sơn gật đầu đồng ý ngay. "Ừ, đúng đó huynh. Đi đêm trong rừng này nguy hiểm lắm."
Phan Hương cũng không phản đối, cô bé có vẻ cũng đã thấm mệt sau cả ngày di chuyển.
May mắn là trong số đồ đạc có một chiếc lều cắm trại tự bung khá hiện đại và rộng rãi, đủ cho cả ba người. Chúng tôi nhanh chóng tìm một khoảng đất trống, bằng phẳng gần bờ suối, tránh xa những bụi cây rậm rạp, rồi cùng nhau dựng lều. Công việc không quá khó khăn, chỉ mất khoảng mười lăm phút là chiếc lều đã đứng vững chãi.
Trong lúc tôi và Phan Hương trải túi ngủ và sắp xếp đồ đạc bên trong lều, Hoàng Sơn đã nhanh nhẹn đi nhặt một ít củi khô xung quanh. Hắn dùng con dao găm bóng tối của mình để chẻ củi và nhóm lửa một cách thành thạo. Ngọn lửa nhỏ dần dần bùng lên, nhảy múa vui mắt giữa bóng tối, mang theo hơi ấm và ánh sáng cho khu cắm trại tạm thời của chúng tôi.
"Có đồ ăn gì không đây?" Hoàng Sơn xoa xoa hai tay vào nhau bên đống lửa, bụng bắt đầu réo. "Đi cả ngày đói meo rồi."
Tôi lấy trong ba lô ra mấy gói thịt khô, vài củ khoai lang mua ở chợ thị trấn, và một ít gia vị đơn giản. "Đồ dự trữ đây. Chúng ta nướng ăn tạm tối nay vậy."
Ba người chúng tôi ngồi quây quần bên đống lửa. Hoàng Sơn lấy mấy cành cây tươi gần đó, vót nhọn một đầu làm xiên, rồi xiên thịt khô và khoai lang vào, đặt lên nướng trên lửa. Mùi thịt nướng bắt đầu lan tỏa thơm phức, quyện vào mùi khói củi và hương rừng đêm, khiến bụng tôi cũng bắt đầu cồn cào. Phan Hương thì lấy bình nước lọc ra, chia cho mỗi người một ít.
Đang lúc không khí ấm cúng, vui vẻ, thì từ phía bìa rừng gần đó vang lên tiếng bước chân sột soạt trên lá khô và ánh đèn pin quét qua quét lại. Cả ba chúng tôi lập tức cảnh giác, im lặng lắng nghe.
Hai bóng người mặc đồng phục màu xanh lá cây quen thuộc của lực lượng kiểm lâm từ từ tiến lại gần khu cắm trại của chúng tôi. Họ đội mũ rộng vành, đeo đèn pin trên trán, và mang theo bộ đàm bên hông. Thấy chúng tôi, họ có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không tỏ ra thù địch.
"Chào các anh chị," một người kiểm lâm trông lớn tuổi hơn, gương mặt rắn rỏi, lên tiếng trước, giọng nói trầm và rõ ràng. "Đang đi tuần thì thấy có ánh lửa nên chúng tôi ghé qua xem sao. Các anh chị đi đâu mà lại cắm trại ở đây vậy?"
Tôi đứng dậy, chắp tay chào lại một cách lịch sự. "Chào hai anh. Chúng tôi là khách du lịch, đang trên đường đi bộ xuyên qua vùng này. Vì trời tối quá nên đành phải dừng chân cắm trại lại đây qua đêm." Tôi cố gắng tỏ ra là một người du lịch bụi bình thường.
Người kiểm lâm trẻ tuổi hơn đi cùng, quan sát đống lửa trại của chúng tôi, khẽ nhíu mày. "Trong rừng cấm đốt lửa đó anh chị ơi. Nguy hiểm lắm, lỡ cháy lan ra thì khổ."
"Dạ, chúng tôi biết," Phan Hương nhanh trí đáp lời, giọng cô bé nhẹ nhàng, lễ phép. "Chúng tôi chỉ nhóm lửa nhỏ để sưởi ấm và nướng chút đồ ăn thôi ạ. Sẽ rất cẩn thận và dập tắt hoàn toàn trước khi đi ngủ." Cô bé nhìn hai anh kiểm lâm với ánh mắt có phần ngây thơ, mong được thông cảm.
Hai anh kiểm lâm nhìn nhau, rồi người lớn tuổi gật đầu. "Thôi được rồi. Ở đây cũng gần bờ suối, tương đối an toàn. Nhưng các anh chị phải tuyệt đối cẩn thận nhé. Gió núi mùa này lớn lắm." Ông nhìn quanh khu cắm trại. "Chỉ có ba người thôi sao? Đi bộ đường núi này vất vả lắm đấy."
"Dạ vâng, chỉ có ba chúng tôi thôi ạ," Hoàng Sơn đáp, cố gắng tỏ ra thân thiện. "Đường xa, lại đói bụng, hai anh đi tuần chắc cũng mệt rồi. Hay ngồi xuống đây nghỉ chân, ăn chút đồ nướng cho ấm bụng đi ạ?" Hắn nhiệt tình mời.
Hai anh kiểm lâm ban đầu có vẻ hơi ngần ngại, nhưng nhìn đống lửa ấm áp và mấy xiên thịt nướng thơm lừng, lại thấy chúng tôi cũng có vẻ là người lịch sự, nên cuối cùng cũng gật đầu đồng ý. "Vậy thì làm phiền các anh chị quá."
Họ ngồi xuống cùng chúng tôi bên đống lửa. Không khí trở nên thân thiện và cởi mở hơn. Tôi lấy trong ba lô ra một bình rượu nếp nhỏ mới mua ở thị trấn lúc sáng, vò rượu quý của ông Bảy Lịch thì tôi không dám mang ra đãi khách lạ.
"Mời hai anh dùng chút rượu cho ấm người," tôi rót rượu ra mấy chiếc cốc nhựa mang theo. "Rượu quê thôi ạ, không có gì đặc biệt."
"Ôi trời, khách sáo quá!" Anh kiểm lâm trẻ tuổi cười nói, vui vẻ nhận lấy ly rượu. "Đi tuần đêm lạnh có ly rượu này thì còn gì bằng."
Năm người chúng tôi ngồi quây quần bên lửa trại, vừa ăn thịt nướng, khoai lang nướng, vừa uống rượu, trò chuyện vui vẻ. Hai anh kiểm lâm kể về công việc tuần tra bảo vệ rừng đầy vất vả và nguy hiểm của mình, về những lần chạm trán với lâm tặc hay thú dữ. Họ cũng kể về những câu chuyện dân gian, những truyền thuyết bí ẩn về các ngọn núi, hang động trong vùng, về những loài cây thuốc quý hiếm, và cả những loài vật kỳ lạ mà người dân địa phương thỉnh thoảng bắt gặp.
Hoàng Sơn và Phan Hương say sưa lắng nghe, thỉnh thoảng lại đặt những câu hỏi tò mò. Tôi thì ít nói hơn, chủ yếu chỉ lắng nghe và quan sát, nhưng cũng cảm thấy khá thú vị trước những câu chuyện mộc mạc nhưng đầy màu sắc của núi rừng.
"Mà các anh chị này," anh kiểm lâm lớn tuổi chợt hỏi. "Đi bộ xuyên rừng thế này, không sợ gặp nguy hiểm à? Dạo này nghe nói gần đây thỉnh thoảng có xuất hiện mấy con thú lạ, hung dữ lắm, không giống mấy con thú rừng bình thường đâu."
Tôi khẽ nhíu mày. Thú lạ? Hung dữ? Chẳng lẽ… lại liên quan đến Dị Vật hoặc ảnh hưởng từ Khe Nứt Không Gian?
"Thú lạ sao ạ?" Phan Hương hỏi, giọng có chút lo lắng. "Là loài gì vậy anh?"
"Chúng tôi cũng không rõ nữa," anh kiểm lâm trẻ tuổi lắc đầu. "Chỉ nghe mấy người đi rừng kể lại thôi. Có người bảo thấy con gì đó giống như lợn rừng nhưng to gấp đôi, mắt đỏ ngầu, hung dữ lắm. Có người lại thấy con gì bay lượn ban đêm, kêu những tiếng kỳ quái. Nói chung là không bình thường."
"Các anh chị đi đường nhớ cẩn thận nhé," người lớn tuổi dặn dò. "Ban đêm tốt nhất đừng đi một mình. Gặp chuyện gì bất thường thì cứ hú lên thật to, hoặc bắn pháo hiệu. Chúng tôi tuần tra gần đây thôi."
"Dạ, chúng tôi cảm ơn hai anh đã nhắc nhở," tôi nói, lòng thầm ghi nhớ thông tin vừa rồi. Xem ra hành trình phía trước không chỉ có nguy hiểm từ con người, mà còn cả từ những sinh vật bị biến đổi nữa.
Trời càng về khuya, sương xuống càng dày và lạnh hơn. Hai anh kiểm lâm sau khi đã trò chuyện vui vẻ và uống vài ly rượu ấm người, cũng xin phép cáo từ để tiếp tục công việc tuần tra.
"Thôi, chúng tôi phải đi đây," người lớn tuổi đứng dậy. "Các anh chị ở lại nhớ giữ gìn cẩn thận nhé. Đống lửa này trước khi đi ngủ nhớ dập tắt hẳn đi đấy, tàn lửa bay vào lá khô là dễ cháy rừng lắm đó."
"Vâng, chúng tôi biết rồi ạ. Cảm ơn hai anh nhiều!" Chúng tôi đồng thanh đáp.
Hai người kiểm lâm chào tạm biệt rồi khuất dần vào bóng tối của rừng đêm. Tiếng bước chân của họ nhỏ dần rồi mất hút. Không gian lại trở về với sự tĩnh lặng vốn có, chỉ còn tiếng lửa trại tí tách và tiếng côn trùng rả rích.
"Xem ra chuyến đi này còn nhiều chuyện hay ho đây," Hoàng Sơn nói, vẻ mặt vừa hào hứng vừa có chút lo lắng sau khi nghe chuyện về thú lạ.
"Chúng ta cần phải cẩn thận hơn," tôi nói, nhìn vào ngọn lửa đang cháy leo lét. "Thế giới này… phức tạp hơn chúng ta tưởng rất nhiều."
Chúng tôi ngồi thêm một lát nữa bên đống lửa, rồi quyết định vào lều đi ngủ sớm để lấy sức cho ngày mai. Tôi cẩn thận dùng đất và nước suối dập tắt hoàn toàn đống lửa, không để lại một tàn tro nào có thể gây cháy.
Ánh lửa trại cuối cùng cũng lụi tàn, màn đêm đen đặc hoàn toàn bao trùm lấy khu rừng già. Tiếng côn trùng rả rích như một bản nhạc ru buồn tẻ, tiếng gió hú qua khe núi lúc trầm lúc bổng càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, tĩnh mịch. Ba người chúng tôi chui vào chiếc lều khá rộng rãi, mỗi người một túi ngủ, cố gắng tìm kiếm chút hơi ấm và sự an toàn giữa nơi hoang dã. Hoàng Sơn ngáy khe khẽ gần như ngay lập tức sau một ngày dài mệt mỏi. Phan Hương cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Riêng tôi, giấc ngủ vẫn là một thứ xa xỉ. Tôi nằm im, mắt mở thao láo nhìn lên nóc lều tối đen, lắng nghe từng tiếng động nhỏ bên ngoài. Lời cảnh báo của hai anh kiểm lâm về những con thú lạ hung dữ cứ lởn vởn trong đầu. Thú lạ? Hay là những sinh vật đã bị ảnh hưởng bởi năng lượng dị thường, trở thành một dạng Dị Thú? Thế giới này thực sự không thiếu những điều bất ngờ và nguy hiểm.
Tôi khẽ vận Thiên Nhãn, dò xét năng lượng xung quanh khu cắm trại trong phạm vi vài trăm mét. Ngoài luồng năng lượng ôn hòa của núi rừng và dòng suối, tôi không cảm nhận được khí tức nguy hiểm nào khác đang lại gần. Tạm thời có thể yên tâm một chút.
Cố gắng gạt bỏ những suy nghĩ miên man, tôi tập trung vào việc điều hòa hơi thở, từ từ chìm vào trạng thái thiền định nông, vừa để nghỉ ngơi, vừa để duy trì sự cảnh giác.


0 Bình luận