Thần Tích
Kawaguin
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Quyển 01: Thế giới muôn màu

Chương 36: Đời này không hề tiếc

0 Bình luận - Độ dài: 4,286 từ - Cập nhật:

Tôi là Giles Corey.

Sinh ra trong một gia đình quý tộc tại thành phố Venna phồn hoa, tài năng vượt trội của tôi sớm bộc lộ vô cùng rực rỡ. Trong số bốn anh em, tôi là người được đánh giá cao nhất về tiềm năng ma thuật. Vì lẽ đó, từ thuở nhỏ, tôi luôn nhận được sự nuông chiều và kỳ vọng từ mọi người xung quanh. Điều này vô tình nuôi nên sự kiêu ngạo trong tôi, nhưng thế thì sao chứ? Tôi chăm chỉ trau dồi bản thân, đọc vô số quyển sách ma thuật, luyện tập không ngừng những phép thuật phức tạp. Tôi lấy sự siêng năng của mình làm cơ sở cho cái tôi của mình có thể ngẩng cao đầu.

Tôi thích sách, thích đến lạ thường. Từ khi biết đọc vào năm ba tuổi, sách đã trở thành người bạn đồng hành thân thiết nhất của tôi. Đến năm sáu tuổi, tôi đã lược qua tất cả các sách ma thuật cơ bản, rồi không ngần ngại lao mình vào những tri thức nâng cao hơn. Mỗi khi hứng thú với một chủ đề, tôi sẵn sàng dành hàng ngày trời nghiền ngẫm từng trang sách, nghiên cứu từng dòng chữ, như thể mỗi cuốn sách là một cánh cổng dẫn lối đến thế giới kỳ diệu của ma thuật. Càng đọc, tôi càng say mê; càng say mê, tôi lại càng muốn đọc nhiều hơn. Những dòng chữ khô khan trong mắt người khác đối với tôi lại là ngọn lửa không ngừng bùng cháy, nung nấu đam mê và khát vọng khám phá tri thức.

Năm mười tuổi, gia đình tôi nhận một tin dữ. Cha tôi qua đời sau khi chiến đấu với Cerriluna. Tin này giáng xuống như một tia sét ngang tai, đánh tan sự yên bình vốn có. Sau ngày cha mất, tôi đóng mình trong phòng suốt nhiều tháng, tìm đọc mọi tài liệu về Cerriluna. Từng chi tiết, từng mảnh ghép về tổ chức này khắc sâu vào trí nhớ tôi như những nét khắc trên thép. Khi những ký ức ấy bắt đầu phai nhạt, tôi lại dùng ngọn lửa của sự thù hận để rèn giũa chúng, khiến chúng luôn sắc bén và sống động như ngày đầu.

Mười một tuổi, tôi giành được tấm bằng Pháp sư danh giá – một thành tựu mà nhiều người chỉ dám mơ ước. Một năm sau đó, khi tôi vừa bước sang tuổi mười hai, gia đình đã xoay sở đủ kinh phí để tôi được nhập học tại Học viện Victoria, nơi đào tạo ra những pháp sư ưu tú nhất. Những người anh em lại ủng hộ tôi đến bất ngờ, hẳn họ cũng tin tưởng vào tài năng ma thuật của tôi. Rằng nếu tôi trở thành một vị pháp sư vĩ đại thì sẽ không đoái hoài cái chức gia chủ quý tộc chốn này nữa.

Những năm đầu ở Victoria trôi qua một cách suôn sẻ, thậm chí là quá dễ dàng. Tất cả những kiến thức được giảng dạy tại đây đều đã quá đơn giản trong mắt tôi. Trong những năm tháng ấy, tôi gặp được Martha và Watson, cả hai đều là những pháp sư đầy tiềm năng, dù không sánh được với tôi. Dẫu vậy, bằng cách nào đó, Watson lại thường xuyên được tham gia vào các nghiên cứu chuyên sâu do các giảng viên chủ trì. Cậu ta nổi bật, thu hút sự chú ý của mọi người.

Rõ ràng là tôi giỏi hơn cậu ta mà? 

Thế là tôi dành một thời gian quan sát Watson. Không khó để nhận ra rằng sự hăng hái và tinh thần nhiệt tình của cậu ta chính là chìa khóa. Cái miệng dẻo của cậu ta giúp cậu chen một chân vào các phòng thí nghiệm. Khó rồi đây… mấy thứ này tôi chưa từng đọc qua trong bất kỳ cuốn sách nào. Tôi không cho rằng đam mê của cậu ta với ma thuật có thể vượt qua tôi, nhưng tôi chẳng thể nào luôn tỏ ra hăng hái như cậu. Tôi thử tiếp cận cậu ta, và:

“Corey. Thật ra tớ rất ngưỡng mộ cậu. Cậu giỏi như vậy mà lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn hết à!”

Ha ha, cậu ta thực ta cũng không tệ đến thế. Cái đồ dẻo miệng? Ai lại nói bạn tôi như vậy đấy! Cậu ấy chỉ đang nói sự thật mà thôi. Nhờ việc kết bạn với Watson, tôi được cậu ta kéo đi tham gia các nghiên cứu, và cuối cùng, các vị pháp sư khác cũng nhận ra tài năng của tôi. Tôi cũng cố gắng cải thiện khả năng giao tiếp của mình, dù không muốn nhưng phải thừa nhận thứ đó sẽ giúp ích khá nhiều cho quá trình trở thành một pháp sư vĩ đại. Tôi bắt đầu dành vài phút mỗi ngày trước gương, cố gắng nặn ra một nụ cười như để tự khích lệ bản thân, tiếp thêm năng lượng để có thể ra ngoài kia giao tiếp với mọi người. Nhưng càng tiếp xúc với mọi người, tôi càng nhận ra rằng con người đôi khi còn phức tạp hơn cả ma thuật. Sự phức tạp này không đẹp đẽ như những dòng chú thuật mà tôi yêu thích, mà ngược lại, đầy rẫy sự xấu xí và đáng sợ.

Mười lăm tuổi, bài kiểm tra đặc biệt của Victoria cuối cùng cũng đến. Tôi, Martha, Corey và Hirsch, một học sinh khác cũng khá xuất sắc, được phân cùng một nhóm. Hirsch là kiểu người khá lập dị và quái gở, lúc nào cũng im lặng ngồi một góc, thỉnh thoảng lại mở mồm nói những điều kỳ quặc. Mặc dù tôi cũng là một kiểu người khá ít nói, nhưng so với cậu ta thì tôi lại trông vô cùng hòa đồng.

Nhiệm vụ của chúng tôi là săn một con wyvern non. Nghe thì vô cùng đơn giản, nhưng thật ra nó lại đơn giản đến vô cùng. Nhân cơ hội được quay về Venna, tôi cùng mọi người làm nhiệm vụ thật nhanh rồi dẫn họ đi tham quan khắp thành phố mà tôi luôn tự hào này. Nhưng lòng tôi vẫn canh cánh một việc, tại sao lại có wyvern ở gần Venna? Tôi ghét cảm giác của cái không biết, thế nên tôi im lặng thử truy vết. Và rồi tôi thành công! 

Tôi tìm ra nơi mà con wyvern trốn thoát khỏi, tôi kêu gọi những người trong nhóm cùng tham gia với mình. Watson và Martha có chút do dự, nhưng Hirsch, trái với dự đoán của tôi, lại chủ động tham gia. Hai người còn lại thấy vậy cũng miễn cưỡng theo chân tôi. Một cảm giác háo hức dâng lên lòng tôi, một tổ đội thiếu niên dũng cảm phá tan một hang ổ tà ác, nghe tuyệt biết bao! Nói thế chứ tôi cũng chẳng rõ phía trước là gì, có lẽ chỉ cần mình tôi cũng đủ giải quyết.

Tò mò hại chết con mèo.

Tôi đã đánh giá thấp kẻ địch, và đánh giá quá cao bản thân mình rồi. Cái giá của sự ngu dốt ấy là mạng sống của Martha. Cô ấy đã mất, và tất cả đều do tôi. Một lần nữa, cái tên Cerriluna lại xuất hiện. Tôi không hiểu, tại sao giữa lòng thành phố Venna lại có thể xuất hiện bọn chúng được chứ? Không ai trả lời câu hỏi đó của tôi. Họ không muốn trả lời.

Mười tám tuổi, tôi tốt nghiệp Victoria. Nhưng thay vì trở về Venna để tranh chức gia chủ với các anh mình, tôi quyết định đến Matica và gia nhập một phòng nghiên cứu. Tại đó, tôi một lần nữa đắm chìm trong thế giới ma thuật – niềm đam mê duy nhất còn sót lại trong tôi. Nhưng rồi, sự thật phũ phàng dần hiện ra. Những người đồng nghiệp quanh tôi không làm việc vì tình yêu ma thuật. Đối với họ, ma thuật chỉ là công cụ kiếm sống. Họ bán thời gian, bán công sức, bán cả niềm đam mê để đổi lấy những đồng bạc lạnh lẽo. Tất cả những con người đầy tài năng, tụ hội lại cùng một nơi, và thứ họ làm không phải là nghiên cứu vẻ đẹp của ma thuật, mà là cầu xin những đồng tiền vô vị.

Một đồng nghiệp nói với tôi:

“Không có tiền thì sao mà sống được.”

Nhưng không có đam mê thì sống phí hoài mất rồi! Tôi không thể chấp nhận lối sống tạm bợ và vô định hướng ấy. Thế là tôi lại rời đi, đi khắp cả Daventry, rồi tôi lại rời khỏi đất nước yêu quý này. Tôi đến Londinium, Arendale, Numenor rồi cuối cùng dừng chân ở Themyscira. Đất nước khép mình này muốn được mở ra một lần nữa, và nó sẵn sàng tiếp nhận mọi con người từ khắp nơi trên thế giới này. Tại đây, tôi tìm thấy những con người thực sự có đam mê và lý tưởng, những người sống vì điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân họ.

Tài năng của tôi cũng được công nhận và kính trọng, tôi thậm chí có cơ hội gặp mặt ngài Ansel. Và tôi đã hỏi ngài, tất cả những gì đã ám ảnh tâm trí tôi bấy lâu nay, về Cerriluna và về Venna. Ngài đã giải hoặc cho tôi, dần dần, đối với tôi ngài ấy giống như một người thầy, người cha tinh thần của tôi. Ngài dẫn lối, giải thích, và đôi khi, chỉ đơn giản là lắng nghe khi tôi cần.

Ba mươi tám tuổi, tôi về lại Daventry, tôi vẫn không thể rời bỏ đất nước này được. Tôi quyết tâm tìm cách thay đổi quê hương và cuối cùng gặp được ngài Isaac Salem. Nhờ tài năng ma thuật của mình, tôi đã trở thành học trò xuất sắc nhất của ông, và không lâu sau, tôi được công nhận là người kế thừa danh hiệu Salem.

Bốn mươi mốt tuổi, tôi nghe tin cha của Hirsch mắc bệnh ma thạch xâm lấn, một căn bệnh hiểm nghèo khiến Hirsch phải làm việc ở những nơi cực kỳ nguy hiểm để kiếm tiền chạy chữa. Hirsch là một trong số ít người bạn mà tôi vẫn giữ liên lạc suốt những năm qua, nên tôi muốn giúp cậu ấy. May mắn thay, tôi lại biết một người bạn khác đang nghiên cứu tìm phương pháp chữa trị căn bệnh này, Viviana Copernicus.

Sáu mươi tuổi, tôi chính thức trở thành Salem. Cùng thời điểm đó, nghiên cứu của Viviana cũng thành công, mang lại giải Swiss y học đầy danh giá cho cô ấy. Nhờ phát minh này, cha của Hirsch được chữa khỏi, và cuối cùng, cậu ấy có thể nghỉ việc ở những trụ sở nghiên cứu tà thuật nguy hiểm kia. Hoặc ít nhất, đó là điều tôi nghĩ.

Sáu mươi sáu tuổi là một độ tuổi khá trẻ với các pháp sư, và đó cũng là lúc mà tôi trở thành một Đại pháp sư. Xét về tư cách, tôi là Salem. Xét về khả năng, tôi là Đại pháp sư. Với vị trí và sức mạnh đó, tôi bắt đầu thay đổi mọi thứ. Tôi gia nhập bộ máy chính quyền ở Daventry, không ngừng nỗ lực làm trong sạch hệ thống, mang lại sự liêm chính và công bằng. Tôi xây dựng một môi trường học thuật khuyến khích đam mê, mở ra con đường cho những tài năng trẻ tuổi, và biến Venna trở nên phồn vinh, sạch bóng Cerriluna.

Với tư cách Đại pháp sư, tôi còn can thiệp vào Bộ Ma thuật, sửa đổi thể thức kiểm tra nguy hiểm của trường pháp sư Victoria – điều mà lòng tôi vẫn chưa hề nguôi ngoai. Tưởng chừng mọi thứ đang đi đúng hướng, nhưng đến năm tôi một trăm chín mươi hai tuổi, Đại Thanh Trừng bùng nổ.

Ban đầu, chiến tranh chỉ là những cuộc tấn công nhỏ nhằm vào các trụ sở Cerriluna. Nhưng ngọn lửa chiến tranh nhanh chóng lan rộng, thiêu đốt khắp cả lục địa. Từ Themyscira đến Arandas, Numenor rồi Daventry, ngay cả quân đoàn từ Nam lục cũng nhập cuộc. Chiến tranh kéo dài hơn một thập kỷ, và khi tôi tưởng mọi thứ đã gần kết thúc, một tin dữ lại truyền đến tai tôi.

Trong lúc tôi đang tiến đánh một hang ổ của bọn Cerriluna ở Solavega xa xôi, Venna đã bị tấn công, và khi tôi trở về, nó đã chỉ còn là đống hoang tàn đổ nát. Trước mặt tôi khi ấy là Thần, Thần giết sạch những binh lính dưới trướng của tôi. Họ đều là những chàng trai trẻ đầy dũng cảm, vậy mà tôi chỉ có thể trơ mắt nhìn sinh mạng của họ trôi tuột đi. Sự hy sinh của họ đã câu đủ thời gian để thánh Ansel đến và đuổi Thần Bình Minh đi, giúp tôi may mắn sống sót. 

Nhưng mạng của tôi từ giây phút ấy không còn là của riêng tôi nữa, nó là mạng mà vô số sinh linh đã hy sinh đánh đổi để cứu lấy. Và sứ mạng của tôi chỉ chấm dứt khi, Cerriluna hoàn toàn biến mất khỏi cõi đời này.

Venna giờ đây chỉ còn là một cái tên trong ký ức, gia tộc Corey cũng tan biến theo đó. Chẳng còn ai sống sót, chỉ có một người anh trai của tôi. Tôi cứ nghĩ mình đã chẳng còn quan tâm đến cái gia tộc đầy thị phi đấy, thế sao khi này đây lòng tôi lại đau đến vậy… Anh trai tôi đến gặp tôi một mặt, nói lời chào tạm biệt rồi rời đi, khỏi vùng đất quê hương này. Tôi níu anh lại, hỏi anh muốn đi đâu, anh cười rồi nói, anh đi muôn nơi.

Trong tận cùng của cái rủi lại có cái may, tại di tích của Venna ta lại tình cờ tìm được một đứa bé có mạch ma thuật tuyệt vời. Thế giới này rất bất công, dù bạn siêng năng cần cù đến thế nào mà không có thiên phú ma thuật thì bạn sẽ mãi không có được tấm bằng chứng nhận pháp sư. Ngược lại, nếu bạn có thiên phú xuất sắc mà chỉ lười biếng thì khả năng cao là… bạn vẫn sẽ trở thành pháp sư. Ngạn ngữ Londinium có câu: cần cù khó bù được thiên phú.

Cái danh Salem không cho phép tôi chết, xuyên suốt một thập kỷ bom đạn của chiến tranh đã có biết bao sinh mạng đổ xuống, nhưng đó không được phép là tôi. Giờ đây tôi quá mệt mỏi rồi, tôi quyết định chọn đứa bé này làm Salem đời tiếp theo, để tôi có thể kéo theo Cerriluna theo chôn cùng mình mà không ngần ngại gì nữa. Tôi đem nó về nhà, đặt cho nó cái tên ‘Verdana’.

Nhưng tôi lại đánh giá quá cao mình, dù là một đại pháp sư đi nữa, tôi hoàn toàn mù tịt về việc nuôi dạy trẻ con. Suốt ngày nó cứ quấy khóc, dỗ mãi mà không chịu nín. Tối đến lại chẳng chịu ngủ, cứ la lên oai oái. Đoạn thời gian ấy, tôi bận tối mặt tối mày. Mà vậy cũng tốt, con người ta bận rộn lên thì ít có thời gian để mà nghĩ ngợi lung tung. Một biện pháp khá hay để vượt qua nỗi buồn, cho đến ngày sinh nhật của tôi. Tôi nhìn những lá thư chúc mừng từ những người bạn của mình mà thất thần, tôi đã hai trăm linh ba tuổi sao?

Hai trăm tuổi, nói là trẻ thì chắc chắn không trẻ, nhưng nói là già thì cũng chưa hẳn. Chiến tranh và bệnh tật đã kéo tuổi thọ trung bình của người ta xuống không quá hai trăm, nên đến tuổi này cũng có thể nói tôi sống thọ rồi. Một số nghiên cứu thì lại nói cơ thể con người được cường hóa bởi ma thuật như các pháp sư thì có thể sống đến tận năm trăm tuổi, nếu vậy thì tôi còn chưa được nửa chặng đường. Nhưng dù nói theo cách nào, hai trăm năm là một quãng đường không hề ngắn. Vậy mà giờ khi tôi nhìn lại, tôi đã làm những gì rồi? Gia đình chẳng còn, bạn bè lác đác không có mấy ai. Số lần tôi cười nói cùng bạn bè còn ít hơn số năm tôi nhốt mình trong bốn bức tường trắng của phòng nghiên cứu. Từ nhỏ đến lớn cứ đuổi theo cái đam mê ma thuật, nhưng đường đam mê là đường vô tận, đi đến bao giờ mới hết. Thành Đại pháp sư rồi sao nữa, khi mà Venna tôi luôn tự hào, luôn cố gắng gầy dựng nên đã sụp đổ trước mắt tôi.

.

Hai trăm mười hai tuổi, tôi dẫn đứa học trò nhỏ của mình đến Londinium, và nó đã dễ dàng giành được tấm bằng Pháp sư. Vậy là sớm hơn tôi một năm rồi, hy vọng là sau này nó cũng sẽ mãi hơn tôi một bậc như vậy. Thấy nó dần trưởng thành hơn qua từng ngày, dần nắm bắt được những ma thuật mạnh mẽ hơn. Lòng tôi bỗng thoáng qua một cảm giác thanh thản hiếm hoi, ít ra tôi biết mình đã để lại cho thế giới này một pháp sư tài ba. Chỉ mong là nó sẽ làm được những điều mà tôi không thể.

Rời khỏi tháp Babyrus, tôi nhìn thấy một vẻ kiêu ngạo và tự mãn không hề che giấu trên gương mặt nó. Đó là điều đương nhiên thôi, dù sao nó vẫn là một đứa trẻ con mà. Khi xưa tôi cũng từng như vậy, nghĩ đến đó, tôi lại không muốn nó giống như mình, để sự kiêu căng làm mờ con mắt. Vậy là tôi quyết định đưa nó đi khắp lục địa. Để nó thấy được thế giới muôn màu, để cho nó hiểu được cảnh đời ngoài kia trăm hình vạn trạng.

Cả hai đi rất lâu, trên những cung đường rất xa. Đến tận cùng lục địa, rồi vượt biển xuống tận Nam lục. Có những lúc, tôi tự hỏi: liệu có quá sớm không? Nhưng rồi tôi ngẫm lại, cơ thể này của tôi đã không còn nhiều thời gian. Tôi chỉ đành để nó chịu thiệt, hy vọng không vì thế mà khiến nó nản lòng.

Suốt cả chặng đường dài, có lúc vui cười cũng có lúc đau lòng không cam. Những niềm vui rạng rỡ của nó khiến tôi mỉm cười theo, nhưng khi thấy nó đau buồn, tôi cũng chẳng thể dửng dưng. Tôi vốn không phải là một người giỏi an ủi, những lúc đó chỉ biết xoa đầu nó, thốt lên vài lời trấn an vụng về. Nhưng Verdana kiên cường hơn tôi nghĩ. Nó không gục ngã trước những gì đã thấy, cũng không oán trách cuộc đời. Thay vào đó, nó âm thầm chôn vùi những ký ức đó vào lòng, để cho nó đâm chồi lớn cao, rồi dùng đó làm củi lửa đốt lên ngọn lửa động lực rực cháy. Nhìn nó, tôi như đang nhìn vào một tấm gương, khi xưa tôi cũng từng như thế mà, chỉ là tôi không tài giỏi như nó, cũng chẳng kiên cường đến thế.

Rồi thời gian cũng đưa chúng tôi đến bước ngoặt của lịch sử. Thánh Ansel qua đời, và cuộc Thanh trừng lần hai bùng nổ. Cerriluna, kẻ thù đã ám ảnh cả đời tôi, cuối cùng cũng bị đặt một dấu chấm hết. Thần Bình Minh – người đã kết thúc cuộc chiến – lại là Hirsch. Điều đó có khiến tôi bất ngờ không? Có lẽ là có. Nhưng cuối cùng, tôi chỉ thở dài, chấp nhận tất cả một cách bình thản. Những lời nói cuối cùng của Hirsch có phần khiến tôi không rõ cậu ta có còn là Hirsch mà mình biết, hay chỉ là một cái xác bị tà thuật điều khiển. Nhưng điều đó chẳng còn quan trọng, là Hirsch cũng được, tà thuật cũng thế, mục đích của tôi vẫn là báo thù.

Khi ngọn giáo chiến tranh xuyên thẳng qua tim Hirsch, tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm tràn ngập. Cerriluna đã không còn. Mọi hận thù, mọi đau đớn tưởng chừng như đều tan biến. Trong khoảnh khắc ấy, tôi nghĩ rằng mình có thể buông xuôi tất cả, nhắm mắt và để bản thân tan biến cùng ký ức. Nhưng rồi, hình ảnh của Verdana hiện lên trong tâm trí tôi. Vì nó, tôi gắng gượng tiếp tục sống, dù đó là một lối sống tạm bợ mà trước đây tôi từng khinh ghét.

Thế là tôi quyết định níu giữ chút hơi tàn còn sót lại của thân xác này ở trần gian. Ngày qua ngày, tôi chứng kiến Verdana tiến bộ vượt bậc. Nó không ngừng nỗ lực và gần như đã chạm đến ngưỡng cửa của một pháp sư cấp B. Sự trưởng thành của nó khiến tôi yên lòng, và tôi biết rằng mình không cần chờ đợi thêm quá lâu.

Như những pháp sư Salem đời trước, sau khi kết thúc hành trình chu du khắp lục địa và trở về chân núi Miracles, tôi cũng nhốt mình trong phòng làm việc. Nơi đây, các pháp sư Salem dồn tâm sức cho một dự án gọi là "Xuyên Trời." Họ cố gắng tìm cách nhìn xuyên qua Cổng Trời, mong khám phá bí mật về thứ tồn tại phía bên kia – cái mà chúng tôi gọi là nguồn gốc của Thiên Tai. Tôi, cũng như bao đời Salem khác, dành phần lớn những ngày cuối cùng của mình trong không gian chật chội ấy, giữa những trang sách và hàng loạt biểu đồ phức tạp. Nhưng cuối cùng, thời gian đã đuổi kịp tôi. Cơ thể tôi chẳng thể gắng gượng thêm được nữa.

Trước lúc rời đi, tôi trao lại sách phép của mình cho Verdana. Nhìn nó tập quen với sức mạnh mới, tôi cảm nhận được sự vững vàng và tự tin trong từng cử động của nó. Khi Verdana đã hoàn toàn tiếp nhận danh hiệu Salem, tôi giao cho nó chiếc chìa khóa mở cánh cửa vào phòng làm việc Salem và buông lời từ biệt.

Nhìn trời đất bao la, tôi đã sớm có một đích đến trong đầu. Tôi muốn về lại nơi đã từng là một Venna phồn vinh, hưng thịnh. Dù cho thành phố ấy giờ đây chẳng được như xưa, nó vẫn là nơi tôi sinh ra mà. Cuộc đời của tôi đã lang thang quá nhiều nơi, nhưng chung quy tôi vẫn là Giles Corey, đến từ Venna của Daventry. 

Kết thúc cuộc hành trình tại nơi nó bắt đầu – tựa như một dấu chấm tròn viên mãn.

.

Thảm cỏ xanh mướt đung đưa nhè nhẹ dưới làn gió. Tôi dừng lại, đưa mắt vượt qua những dãy núi xa xăm, hướng về phía Venna. Đoạn đường phía trước không xa, nhưng tôi muốn đi chậm nhất có thể, như níu kéo từng giây phút còn lại. Bất chợt, tiếng bước chân nhẹ nhàng đạp lên cỏ vang lên phía sau tôi. Tôi xoay người lại, nhìn cậu học trò của mình. Nó nói với một giọng run rẩy:

“Con… có thể đi theo thầy không?”

Tôi lắc đầu, cười nhẹ: “Không được đâu, Salem à. Đoạn đường này là của riêng ta.”

“Nhưng con muốn đi theo thầy, đến tận cuối con đường này.”

“Nghe lời ta nào, Salem!”

“Nhưng…!”

Lời phản kháng của nó vỡ vụn. Nhìn đôi mắt đỏ hoe của nó, tôi lại không kìm được lòng. Tôi bước đến gần, vòng tay ôm chặt nó vào lòng, nhẹ giọng thủ thỉ:

“Verdana à, nếu con muốn khóc thì cứ khóc đi. Khóc đi nào. Một khi ta rời đi rồi, nếu con khóc thì ai sẽ dỗ dành cho con chứ.”

Những lời tôi vừa nói như tháo gỡ sợi dây trói trong lòng nó. Tiếng nấc nghẹn ngào bật lên, rồi nó òa khóc, nước mắt thấm vào tấm áo tôi đang mặc. Tôi nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc trắng của nó, ôm chặt nó trong lòng một lần cuối.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi tìm được câu trả lời cho những trăn trở của mình. Suốt hai trăm mười bảy năm, tôi đã làm gì cho đời? Tôi đã góp phần tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn, dù nhỏ bé, nhưng đủ để đứa trẻ này chịu ít đi phần nào khổ đau. Vậy là đủ rồi.

Tôi buông nó ra, nói lời từ biệt lần cuối rồi cất bước rời đi. Tôi không ngoái đầu lại, sợ lòng mình sẽ mềm yếu thêm một lần nữa. Tôi biết mình có thể yên tâm rời đi, vì Verdana sẽ làm được những điều mà tôi chưa thể. 

Trên con đường dài, tôi ngẩng cao đầu nhìn trời. Giờ đây tôi có thể tự tin mà nói, đời này không hề tiếc.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận