Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chu Kỳ Shur'san'gal o'Ernlwgth

Kẻ Trốn Chạy Khỏi Cái Chết [VIII]

0 Bình luận - Độ dài: 5,027 từ - Cập nhật:

Khi tôi hỏi rằng điểm đến đầu tiên của chúng tôi là ở đâu, Hohenjun đã bảo rằng anh sẽ dẫn tôi đến với Ngọn Tháp Viễn Cực—một ngọn hải đăng nằm ngoài khơi của vùng Willdex ở Alaska, với tầm nhìn hướng về phía Bắc Thái Bình Dương. Nó cao lớn, cô độc, gần như biệt lập, với gió và sóng là những vị khách duy nhất của nó trong hơn ba thế kỷ qua. Và đó là nơi mà một Học Giả tên là Samuel de Myrtillière sinh sống và làm việc, người mà chúng tôi cần anh ta giúp để định hướng cho chuyến đi của mình.

Để có thể đến được đó, chúng tôi cần vượt qua một quãng đường hơn bảy nghìn cây số, cho nên, chúng tôi trước tiên đã đến Tháp London để xin Hiệp Hội cấp phép sử dụng Đường Truyền Không Gian. Mọi thứ đối với tôi đều rất mới lạ, đến bây giờ tôi mới biết được các Học Giả trên thế giới hầu hết đều thuộc về một nhóm liên minh do Hiệp Hội Thần Bí đứng đầu và quản lý.

Bọn họ là một tổ chức được thành lập vào năm thứ nhất theo lịch Công Nguyên và sớm đã trải khắp thế giới với nhiều quốc gia thậm chí còn phụ thuộc trực tiếp dưới quyền lực của họ. Có chín bốn trụ sở chính lần lượt nằm ở Tháp London của Anh; Tượng Nữ Thần Tự Do của Mỹ; Núi Côn Lôn của Trung Quốc và cuối cùng là Thành Himeji của Nhật Bản. Hohenjun phản bác thông tin này vì anh ấy cho rằng còn rất nhiều trụ sở ẩn chưa được biết đến, và rất có thể bàn tay của Hiệp Hội đã vươn ra ngoài vũ trụ bao la. Thí dụ như việc Liên Xô và Mỹ có thể bay lên được Mặt Trăng chưa chắc đã không liên quan tới Hiệp Hội khi mà phải có sự chấp thuận của họ thì hai nước mới được đặt tay vào những lĩnh vực phi phàm như vậy. Chính vì quyền lực tối cao rộng khắp này nên các sự kiện siêu nhiên mới có thể tự nhiên mà lẩn giấu khỏi tai mắt của người thường và các Giáo Hội Bí Truyền cũng không dám manh động hay bành trướng thế lực quá mức trong bao nhiên năm qua.

Và về lại với hành trình của chúng tôi, Đường Truyền Không Gian chính là một trong các sáng chế của Hiệp Hội và đóng vai trò như là phương tiện di chuyển trực tiếp của rất nhiều Học Giả. Bằng cách kết nối các tọa độ trong không gian và uốn cong chúng lại, tạo thành một đường hầm xuyên qua giống như lỗ giun, một người có thể di chuyển giữa nhiều nơi cách xa nhau trên bản đồ mà không phải tốn quá một giây. Mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ sau đó, và chúng tôi đi tới một cái bốt điện thoại nơi những người khách liên tục ra vào với nhiều khuôn mặt khác nhau.

Trong buồng là một bản đồ tọa độ và một chiếc điện thoại. Hohenjun quay số, nhập vĩ độ, kinh độ rồi đứng chờ. Chỉ vài giây sau là chiếc điện thoại reo lên, Hohenjun ra hiệu tôi nắm lên vai anh rồi nhấc máy—ngay lập tức, một luồng ánh sáng xanh bao trùm.

Khi lần nữa lấy lại được tầm nhìn, tôi thấy mình và Hohenjun đã đứng trước một ngọn hải đăng màu đen nằm giữa biển lớn, đứng trên một thảm cỏ xanh nhỏ được phủ quanh bởi những bãi đá màu đen ẩm ướt. Hohenjun thuần thục tiến lên, mở cửa ra và đi vào, không quên ra hiệu cho tôi đi theo. Anh vừa bước chân lên những bậc thang vừa giải thích với tôi đơn giản về lai lịch của người mà chúng tôi sắp được gặp.

Samuel de Myrtillière là một Học Giả người Pháp, nhưng đã chuyển đến Willdex sinh sống từ hơn ba trăm năm trước. Có vẻ ‘Samuel de Champlain’ là một trong những cái tên mà anh ấy đã sử dụng trước đây (tôi không nói là ông ấy vì Hohenjun bảo rằng Samuel luôn giữ một ngoại hình trẻ trung, và anh ấy cũng không thích người khác nghĩ mình lớn tuổi)—điều này cũng đồng nghĩa với việc quá khứ của anh ấy chính là một vĩ nhân trong lịch sử, người đã có công vẽ ra bản đồ ven biển chính xác đầu tiên và thành lập nhiều thuộc địa cùng các khu định cư khác nhau ở Bắc Mỹ trong đầu thế kỷ XVII. Dù vậy, Samuel đã sớm bỏ công việc của một nhà thám hiểm, vì như đã nói, anh ấy là một Học Giả. Cái tên và những công trạng chỉ là một lớp vỏ bọc cho một chuyến du hành thư giãn sau nhiều năm nghiên cứu—như bao Nhà Thần Bí Học vẫn làm.

Và khi tìm tới thị trấn nhỏ Willdex nằm sau những dãy núi băng—một địa điểm tuyệt hảo cho cuộc sống biệt lập, Samuel đã ngay lập tức cho xây dựng một ngọn hải đăng để dành phần đời còn lại của mình ở nơi đây.

Tuy nhiên, điều khiến tôi đặc biệt chú ý chính là Samuel vậy mà cũng cùng một loại người với chúng tôi, những người mộng mơ thực tại. Dù vậy, anh ta chỉ thực sự biết đến những cơn ác mộng sau một thí nghiệm bí ẩn trong quá khứ cách đây không lâu, điều mà anh không bao giờ tiết lộ.

Samuel đã dành phần lớn cuộc đời bất tử để nghiên cứu một thứ gì đó, song chính thí nghiệm đó đã tước đi sự bất tử của anh ta vì lời nguyền của những giấc mơ. Hohenjun nói rằng bản thân lúc ấy đang đi trên chuyến du hành với Enola Taggestern ở Vườn Quốc Gia Kenai Fjoirs thì may mắn gặp được Samuel đang rơi vào tình trạng tuyệt vọng vì những cơn tra tấn khiếp khủng. Người dẫn đạo của bạn tôi đã giúp Samuel bình phục lại, và nhờ đó bọn họ quen biết lẫn nhau.

Hai người chúng tôi nhanh chóng đến được phòng ngủ ngay dưới tầng điều khiển và đèn chiếu. Một người đàn ông trẻ với mái tóc màu vàng nhạt đang đứng chờ chúng tôi ngay trước của. Đó hẳn là Samuel de Myrtillièretôi nghĩ.

Một chàng trai có vẻ ngoài chỉ trạc tuổi với chúng tôi, không khỏe mạnh lắm, và gần như tiều tụy, bởi có những vết nhăn đã bắt đầu in lên trên làn da trắng của anh. Tuy vậy, đôi mắt của anh vẫn tràn ngập niềm vui và sự hân hoan, Samuel tiến đến trao cho Hohenjun một cái ôm sảng khoái như hai người bạn thân lâu năm.

Họ hỏi thăm nhau đôi ba câu rồi Hohenjun liền giới thiệu tôi cho Samuel ngay sau đó, và anh ấy lại tiến đến ôm lấy tôi đúng như cách mà anh ấy đã làm lúc trước. Dường như người đàn ông này rất thân thiện, hoặc có lẽ đó là vì anh đã rất cô độc, và sẽ còn cô độc hơn nữa trong những năm cuối cùng của mình.

Chúng tôi đi vào phỏng ngủ của Samuel—nơi ngập tràn bởi những chồng sách, các tấm phác thảo và những bản giấy vẽ. Dù vậy, mọi thứ trông vẫn đủ ngăn nắp để chúng tôi có thể kiếm một chỗ ngồi tốt với tầm nhìn hướng tới biển xanh qua ô cửa sổ. Bạn tôi đã kể lại sơ bộ những sự việc liên quan đến tôi, sau đó nói cho Samuel về ý định của mình, ngỏ lời mời anh tham gia vào chuyến hành trình của chúng tôi.

Tuy vậy, anh ấy đã khéo léo từ chối và nói rằng vẫn còn một thí nghiệm lớn mà anh cần phải hoàn thành—sứ mệnh của riêng anh. Nhưng Samuel cũng bày tỏ rằng anh sẽ hỗ trợ chúng tôi bằng tất cả những gì có thể. Tri thức của anh sẽ giúp chúng tôi biết những chỗ cần phải đi, còn những lọ dung dịch mà anh chế tạo ra sẽ bảo hộ chúng tôi đôi chút trên con đường hiểm trở của mình. Thêm nữa, Samuel còn có thể giúp Hohenjun điều chế một loại dung dịch mà bạn tôi đã từng nêu ra ý tưởng trước đây—thứ thuốc có thể kết nối những giấc mơ của nhiều người với nhau, chia sẻ cho họ cùng một khung cảnh và trải nghiệm.

Thế là sau cuộc trò chuyện ngắn, chúng tôi liền bắt tay vào công việc. Dịch lỏng Imvlatheo như cách mà Hohenjun đã gọi, tiếng Ulqthe có nghĩa là ‘Giấc mơ’đã tiêu tốn của chúng tôi mất mười bảy ngày điều chế, dù thực tế thì cả khoảng thời gian ấy tôi chủ yếu là ngồi một chỗ và nghiên cứu các kiến thức cần thiết.

Chúng tôi có thử nghiệm, và trong những giấc ngủ say, cả ba chúng tôi đã cùng nhau chìm vào biển sâu. Không có gì ngoài nỗi hoảng sợ, cái chết, cùng những giày vò bất tận ngay lúc ấy; nhưng đến khi tỉnh lại, cả ba chúng tôi đã nhìn nhau, rồi đồng loạt bật cười với những tràng lớn cho đến khi khàn cả giọng. Tôi không thể nhớ được chúng tôi đã uống bao nhiêu lít rượu vào hôm đó, hay chúng tôi đã tiệc tùng bao nhiêu lâu. Dù mọi thứ vẫn tăm tối trong đêm, nhưng ít ra chúng tôi đã có thể san sẻ chúng với nhau, cùng chứng kiến, cùng điên loạn, rồi cùng chết; điều đó thì khiến chúng tôi nhẹ nhõm hơn nhiều so với việc đơn độc một mình trong vòng cung vô tận của những nỗi kinh hoàng.

Ngày cuối cùng trước khi chia tay, Samuel đã vạch ra cho tôi và Hohenjun một lộ trình cực kỳ chi tiết. Anh phân loại các di tích thành những điểm chưa được khám phá, điểm đã được khám phá nhưng vẫn còn bí ẩn, và điểm đã hiểu rõ nhưng vẫn còn khúc mắc nhất định. Anh cũng cẩn thận đề tên một số những Học Giả mà chúng tôi có thể gặp trên đường đi, nói rằng họ sẽ có thể đưa ra một số đề nghị hữu ích. Chúng tôi sau đó tạm biệt nhau tại một quán rượu ở Willdex.

Kế hoạch hiện tại của tôi và Hohenjun là một đường đi thẳng từ Bắc Mỹ đến Nam Mỹ, ghé qua Mesa Verde ở Colorado, Teotihuacan và Yulcatan ở Mexico, Thành Phố Cổ Cópan, Caral-supe và Tiwanaku trước khi băng qua biên giới ở Chile, đến cảng Valparaíso để đi tới Đảo Phục Sinh nằm phía nam Thái Bình Dương. Và khi trở về đất liền, chúng tôi sẽ đi đến Amazon, tìm tới Thành Phố Vàng bị thất lạc của người Inca ở Brazil, Paititi. Hoặc nếu may mắn, chúng tôi còn có thể tìm đến Bảy Thành Phố Vàng Cíbola trong thần thoại Aztec nữa.

Đó là toàn bộ kế hoạch của chúng tôi ở Châu Mỹ trước khi dong buồm vượt Đại Tây Dương để đến với Châu Phi, cũng là đoạn đường ngắn nhất trong hành trình của chúng tôi. Bởi theo như nghiên cứu của Samuel, phần lớn Châu Mỹ từ xa xôi trước kia đều là lãnh thổ của những người Maya, Inca, Toltec cùng một số tàn dư từ thị tộc người Lemuria sau khi Atlantis bị đánh chìm mà sau này đã hình thành Mississippian hay Ancestral Puebloans. Cho nên các di tích cổ hay những truyền thuyết xa xưa ở đây hầu hết đều xoay quanh một thần thoại thống nhất, với cốt lõi là một Vị Thần Kép mang tên Zanurath’Isthim’Va và Kamuranth’Isthim’On, mà như trong thần thoại Aztec cổ đã gọi, họ là Ometeotl—Ometecuhtli và Omecihuatl.

Tôi có đọc được từ trong cuốn Amantura rằng Ometeotl là Đấng Tối Cao trị vì sự Trung Chuyển, và cấp bậc của ngài còn lớn hơn cả Usmuhu’N’lahyii, tương đương với Yahwkabath mà tác giả của cuốn tà thư là Icaltha thờ phụng.

Ometeotl là Thiện Thần, vì ngài không kết án báng bổ cho bất kỳ ai theo đuổi. Sự thờ ơ của ngài là sự thờ ơ nhân đạo nhất trên thế giới này, cho nên, cũng không có một Bí Truyền Cổ Lão nào được phép đặt theo tên của Ometeotl, dù cho ngài có là Vị Thần được thờ phụng nhiều nhất trong tất cả. Và điều đó cũng có nghĩa là con đường trở thành Sứ Giả hay Thần Tộc đều khép lại đối với Ometeotl, dẫn tới việc chuyến đi của chúng tôi chín phần mười là sẽ không có một kết quả tốt.

Và quả thật vậy, chúng tôi dù đã tìm thấy rất nhiều di vật cổ, tiếp cận tới rất nhiều bí ẩn có dính dáng tới Ulqthe hay các Vị Thần, chạm mặt với không ít những Bí Truyền Cổ Lão thờ phụng Tezcalitpocas hay thậm chí là đã đụng độ với một số chủng tộc ngoài hành tinh, những tên vẫn đang lẩn trốn khỏi ánh nhìn của Hiệp Hội lẫn những tên đã bị các Thần Bí Giả từ xa xưa phong ấn lại. Chúng tôi đã thấy và nghe nhiều đến mức tôi đã làm hẳn một bài nghiên cứu về “Thật Giả trong Những Thần Thoại Châu Mỹ” theo cả phương diện thần bí lẫn khoa học, và nó thực sự đã đem lại cho tôi một bút tiền lớn. Nhưng mặc nhiên sau tất cả những gì mà chúng tôi đã trải qua, không một vết tích gì có thể cởi mở những nghi hoặc cho chúng tôi về con đường mà chúng tôi muốn nhất, một chút tiến triển cũng không.

Có lẽ những bí ẩn trên Đảo Phục Sinh là điều khác biệt so với phần còn lại. Về những bức tượng Moai, những chữ viết Rongorongo hay những người thuộc Birdman Cult—chúng tôi đã phải rất suýt soát mới có thể thoát khỏi đó an toàn. Ai có thể ngờ được những người trên đảo lại là hậu duệ từ những sản phẩm lai tạp của những người ngoài hành tinh đây? Nhưng được rồi, tôi sẽ không nói nhiều về nó nữa vì Hohenjun đã viết hẳn một cuốn tự truyện cho lần mạo hiểm ấy của chúng tôi rồi.

Vậy là thời gian tỉnh thức đã trôi qua mà không thể giúp được gì cho chúng tôi, nhưng còn những lúc đêm đến ngủ sâu?

Bạn tôi lần đầu tiên gợi ý cho tôi đến việc sử dụng Dịch Lỏng Imvla khi chúng tôi đang đi dọc theo Đại Lộ Người Chết ở Teotihuacan, hướng từ Kim Tự Tháp Mặt Trăng tới Đền Thờ Quetzalcoatl. Mục đích của chuyến đi là tìm hiểu những hang động nằm dưới Kim Tự Tháp Mặt Trời tọa lạc ở chính giữa khu phức hợp, xem xem ‘ai đã xây dựng nên nó’ và ‘nó có ẩn chứa những bí mật gì’, nhưng khi nhận ra manh mối chỉ đưa tới những lối đi tiến về một đáp án duy nhất là Ometeotl, như những lần trước, Hohenjun đã không kiềm lòng được.

Điều chế một bình dung dịch Imvla là rất khó, thực tế thì dù cho thời gian để hoàn thiện nó chỉ khoảng xấp xỉ một phần hai so với lúc Hohenjun chế tạo Dịch Lỏng Epimetheus, nhưng nên nhớ rằng có tới ba người đã chung tay làm việc này trong điều kiện tất cả những nguyên vật liệu đã có sẵn, hơn nữa trình độ của Samuel còn vượt xa Hohenjun trong lĩnh vực này một mảng lớn. Vậy nên theo kế hoạch, chúng tôi cần phải suy nghĩ kỹ lưỡng lợi và hại trước mỗi lần sử dụng thuốc.

Một lần mỗi hai tháng, sáu lần mỗi năm, và cho đến khi hai mươi tám lọ được dùng hết thì sẽ không còn gì cả. Đó là tất cả những gì mà chúng tôi có, bởi nguyên liệu điều chế Imvla cần phải tích súc rất lâu mới có thể đủ liều lượng để tiến hành tinh lọc và sử dụng.

Tôi còn nhớ rõ hôm ấy mình đã hỏi Hohenjun nhiều lần rằng anh ấy có chắc không khi chỉ mới mười sáu ngày trôi qua, nhưng sau một hồi đắn đo, anh ấy vẫn giữ vững quyết định của mình. Hohenjun không thể chịu được sự trì trệ này khi mà anh ấy còn đang sở hữu công cụ để đi tiếp.

Vậy nên tối đó, chúng tôi đã lần nữa trải nghiệm cảm giác có bạn đồng hành trong khi mơ màng chìm sâu xuống đáy đại dương kinh dị. Trong cùng một giấc mơ, với hai người ngủ mơ, dường như điều đó đã khiến cho Tương Quan Thần Bí giữa tôi và Hohenjun cộng hợp lại với nhau, xoay quanh nhau, thăng hoa mãnh liệt và khiến cho chúng tôi làm được những điều mà chúng tôi đã không thể làm lúc trước.

Sự may mắn mà tôi đã theo đuổi trong lúc say giấc chính là bị 'bóc tách' ra khỏi đáy biển sâu và đi đến một vùng biển được kết nối với nhiều thực tại khác, thay vì phải chứng kiến những Vị Thần khủng khiếp. Nhưng giờ đây, dưới sức mạnh của tôi và Hohenjun, tôi cảm giác được sự may mắn đó đã nằm gọn trong tay chúng tôi; và khi tôi động ý niệm của mình, chúng tôi đã ngay tức thì ngồi trên con thuyền trắng trôi giữa dòng nước trong vắt mênh mông vô tận.

Đêm đầy sao, với tám chòm tinh tú do Icaltha ngự trị đang luân chuyển chính giữa bầu trời. Không có ốc đảo, không thấy đất liền, chỉ có biển lớn, gió nhẹ, và những miền thế giới mới lạ nằm trong Cõi Ảo.

Như Icaltha đã viết, Đại Hải Tinh Tú này chính là một mặt khác trong Cõi Thực, một mặt nông hơn nhiều nơi Chân Thể các Vị Thần không say giấc, và nơi mà những người ngủ mơ thực sự trở thành kẻ mộng mơ thực tại, lạc trôi giữa vô ngần những thế giới không tưởng mà không một kẻ phàm trần nào có thể bước đến.

Đây chính là mục đích của Hohenjun khi điều chế ra Dịch Lỏng Imvla, chúng tôi không chỉ ghé thăm những mảnh phế tích từ thời đại xưa cũ khi tỉnh giấc, mà khi đêm đến, chúng tôi vẫn tiếp tục với công việc của mình.

Nhưng điều đó liệu có dễ dàng như thế?

Thiên Niên Tàng Thư Viện chỉ có thể nhìn từ mặt nước mà không thể thấy trực tiếp, chỉ có thể cảm giác thông qua những lát cắt mà không thể chạm tới trực tiếp. Ở đó có lưu giữ mọi điều mà chúng tôi muốn biết; bởi đó là ‘nơi ghi chép tất thảy mọi sự, và chứa đựng tất cả những gì đã định hình và tất thảy những gì tiếp tục định hình cho mọi thứ trên đời’. Nhưng làm sao để chúng tôi đến đó được?

Hohenjun không biết, và tôi thì lại càng không. Cho nên, chúng tôi đã bắt đầu từ những nơi gần nhất, từ những chốn dễ dàng nhất—dù đã chắc rằng điều đó cũng đồng nghĩa với việc những cơ hội sẽ ít hẳn đi.  Cuối cùng, chúng tôi đã chết vì sự bất tường trong giấc mơ hôm đó khi chưa khám phá ra được điều gì.

.

Đêm và ngày trôi qua nhanh chóng hơn bao giờ hết khi tôi nhận ra mình đã trưởng thành như thế nào, đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của giới thần bí ra sao. Ngay cả mức độ tương thích của tôi với những sự tượng siêu nhiên cũng đang tăng lên một cách chóng mặt mỗi giờ mỗi khắc. Tôi đọc được càng nhiều hơn những trang phía sau của cuốn Amantura, đi nhiều nơi, nhiều thế giới—nhưng nhiệm vụ cốt lõi của chúng tôi vẫn dẫm chân tại chỗ.

Vào hôm qua, chúng tôi đã gần như hoàn thành ba phần tư chặng đường. Mười năm qua là mười năm bất lực, mặc dù nó đã rất vui vào một số lúc. Chúng tôi đã đi qua Châu Mỹ, qua Đại Tây Dương, đi một nửa Châu Phi, đến với Lục Địa Á-Âu, rồi Bắc Băng Dương, Châu Úc, Ấn Độ Dương và một lần nữa tới Châu Phi.

Chỉ còn một phần nhỏ của Ethiopia, sau đó là Kenya và Tanzania nữa thì chúng tôi sẽ có thể lên đường đến với Thái Bình Dương cùng Châu Nam Cực—nhưng cả hai bọn tôi đều đã có dấu hiệu của sự mệt nhọc.

Trung Quốc đã từng là một quốc gia lý tưởng đối với Hohenjun bởi bề dày lịch sử phong phú nhưng cũng không kém phần đa dạng của nó, trước khi anh nhận ra rằng nơi đây cũng là một trường hợp tương tự với Châu Mỹ, bởi hầu hết mọi vết tích đều chỉ đến Wukanzoth—Thiên Đạo trong tín ngưỡng bao đời của họ. Còn tôi thì đã hy vọng rằng Thổ Nhĩ Kỳ, Iran với tư cách là những cái nôi của hầu hết mọi nền văn minh sẽ cho chúng tôi một món quà bất ngờ nào đó, nhưng chúng cũng không có gì ngoài những điều vốn đã được Iserish V. Himber viết ra trong cuốn ‘Rituals of The Octagram’. Ai Cập cũng không khá khẩm gì hơn khi Hiệp Hội dường như đã phong tỏa mọi con đường đi tới những các di tích cổ vô cùng cẩn mật mà không hề đưa ra một lời giải thích.

Ngay cả Đại Hải Tinh Tú với vô vàn khả năng cũng đã trở thành một con đường vô vọng khi chúng tôi hết thuốc từ lúc chúng tôi đặt chân tới nước Đức. Trong mười bốn lọ thuốc cho mỗi người, chúng tôi đã đến được hơn một ngàn thế giới, nhưng chỉ có chưa tới mười nơi là thực sự có manh mối rõ ràng về các Vị Thần. Chúng tôi đã đến những miền viễn tưởng chỉ có trong lời văn của J. R. Tolkien với Chúa Nhẫn, Clive Staples Lewis với ‘Biên Niên Sử Narnia’ hay L. Frank Braum với ‘Phù Thủy Sứ Oz’; hoặc chúng tôi cũng đã ghé thăm những mảnh thế giới với khoa học tân tiến giống như ‘Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao’. Chúng tôi đã ghé qua rất nhiều, nhưng như đã nói, gần như chẳng thu hoạch được gì.

Chỉ có những kiến thức về các nghi lễ và các Vị Thần là không ngừng được tăng cường, còn câu hỏi ‘làm sao để trở thành Sứ Thần’, hay ‘làm sao để trở thần Thần Tộc’ thì vẫn phải bỏ ngỏ. Tôi thậm chí còn chẳng thấy nổi một nhóm Thần Tộc nào trong hơn một ngàn thế giới đó, ngay cả những Người Ngủ Mơ như tôi và Hohenjun cũng thực sự quá hiếm có. Còn khi những lọ thuốc đã cạn—chúng tôi cũng chẳng làm được gì hơn.

Đáng nhẽ ra sẽ có một thang mới bổ sung vào ba năm trước theo kế hoạch ban đầu, nhưng mọi thứ đã sớm bị xáo trộn hết cả sau cái chết bất chợt của anh bạn Samuel vào năm thứ ba của cuộc hành trình dài.

Chúng tôi còn gì ngoài những mơ tưởng mỏng manh đây? Không gì cả.

Nhưng nếu từ bỏ, vậy chúng tôi phải làm gì nữa khi cái chết đã là điều chắc chắn phải xảy ra?

Sống như một người bình thường và tận hưởng ư? Thôi đi. Với những người ngủ mơ, khái niệm về ‘một cuộc sống bình phàm’ sớm đã rời xa chúng tôi rồi.

Hay chúng tôi có nên tự kết liễu đời mình trước, để tránh khỏi những cái chết điên loạn đang chực chờ ở một tương lai vô định? Tôi nghĩ mình đủ can đảm để làm thế, nhưng những khúc mắc vô tận đã ngăn tôi lại. Chúng cùng những giọng thì thầm ghê tởm luôn bắt tôi phải đuổi theo, phải dằn vặt, suy nghĩ miên man cho đến khi lạc lối và xẩy chân xuống vực thẳm.

Trong những tàn lửa bập bùng trước mắt, tôi cứ liên tục tự hỏi rằng mình nên, hay phải làm gì trước khi cơn điên loạn hủy hoại hoàn toàn tâm hồn này đây. Nhưng rồi tôi nghe tiếng bước chân, Hohenjun đi ra từ lều ngủ và ngồi cạnh tôi.

“Anh không muốn ngủ à?” Anh ấy hỏi.

“Không. Nỗi sợ về việc ngủ say đang ngày một lớn hơn trong tôi, dần dần lớn như nỗi sợ về các Vị Thần mà tôi đang có. Trước bữa ăn tối, tôi đã uống một liều Kass, nó sẽ giúp tôi tỉnh táo trong chín ngày tới.”

“... Nếu anh không kiếm gì đó để giải tỏa những căng thẳng, anh sẽ chết trước khi chúng ta đi khỏi Ethiopia này đấy.”

Sau câu nói đó của Hohenjun là một khoảng lặng. Tôi muốn đáp lời với anh, nhưng không biết nên nói gì. ‘Kiếm gì đó’? Nhưng phải kiếm gì mới được?

“Xin lỗi, có lẽ tôi nên kiên quyết với ý định ban đầu của mình. Tôi nên từ chối anh khi đó.”

“Tôi không hồi tiếc về những điều đã diễn ra, bạn tôi. Anh là một người tuyệt vời, và được đồng hành với anh là một vinh dự lớn. Dù cho không đi cùng anh, tôi cũng sẽ sớm rơi vào tình trạng như thế này, thậm chí còn chết đi nhanh hơn.

Và nếu như có điều gì đó mà tôi vẫn còn hối tiếc, vẫn còn không cam lòng. Thì đó chính là số phận nghiệt ngã của chúng ta. Tôi không hiểu Chúa Trời vì sao lại chọn ra những kẻ để mơ và chết trong mơ, không hiểu sự tồn tại của chúng ta có ý nghĩa gì, nhân loại này, hay thế giới này nữa. Nếu tất cả chỉ là một giấc mơ đối với họ, một suy nghĩ bất chợt trong vô thức, vậy cuối cùng tất cả chỉ là một trò đùa? Liệu trên thế giới này, có thực sự có điều gì có ý nghĩa, đối với họ? Với chúng ta?”

Một lần nữa, không ai nói gì cả. Chúng tôi ngắm trời đêm, ngắm ánh lửa bập bùng; tôi nhìn những con kiến nhỏ chạy dưới đất, rồi thấy một vài con chết đi vì tàn lửa bắn ra, thầm liên tưởng số phận của chúng đối với chúng tôi.

Trên góc độ này, tôi và chúng cũng giống nhau, đều không may chết đi bởi sự vô tình của một vĩ lực cao lớn hơn mà không thể nào phản kháng được. Mọi thứ đều vô nghĩa, có phải không?

“Không đâu. Không vô nghĩa, không có cái gì là vô nghĩa cả.” Hohenjun bỗng nói, tôi ngạc nhiên nhìn đôi mắt của anh, một đôi mắt vẫn còn tràn ngập niềm hy vọng và sự tự tin như những ngày đầu chúng tôi gặp nhau.

“Gì cơ?”

“Chúng ta sinh ra để chết đi, và khi chết đi ta sẽ nhận thấy ý nghĩa của cuộc đời mình. Vì thế nên ta cần phải tận hưởng mọi khoảnh khắc, mọi thời gian mà chúng ta có. Tôi và anh không thể tận hưởng thú vui như một con người bình thường, nhưng chính vì vậy nên tôi với anh mới cần phải tìm cách để được như thế.

Tôi đã quyết định rồi, Chris. Tôi vẫn chưa biết cách để vui chơi không lo nghĩ phù hợp với tôi và anh là gì, nhưng tôi sẽ tìm ra. Tôi vẫn còn luyến tiếc với mơ tưởng của mình, dù vậy tôi hiểu rằng mình không nên cố chấp. Có lẽ chỉ có số phận do các Vị Thần quyết định mới được phép thoát khỏi những ràng buộc. Vậy nên, Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng Osolek ở thành phố cổ Mikhan sẽ là địa điểm cuối cùng trong chuyến hành trình này. Sau đó, tôi và anh sẽ đi trên một con đường mới—một chuyến đi với mục đích tận hưởng hết tất cả gì có thể. Chỉ cần có thể cười vui, sống thoải mái, ngày sẽ sống hết mình còn đêm sẽ gồng gánh hết sức để chờ đến ngày mới—như thế chính là thành công của chúng ta!

Nào, Ahravain Christoph, anh có đồng ý với tôi chứ?”—Giọng nói sảng khoái như xưa kia, gương mặt, dáng người, nụ cười đều hệt như vậy. Hohenjun chìa tay ra, chờ đợi câu trả lời của tôi.

Vậy thì tôi còn có thể làm được điều gì khác nữa đây?—Tôi cảm thấy những luồng sống lần nữa cháy trong tim mình, có những báo động, những tiếng nói, đập thình thịch, gào thét nhức nhối, nhưng tôi không để tâm nữa. Bởi trong mắt tôi hiện tại, chỉ có một niềm vui kỳ lạ mà từ lâu tôi đã đánh mất.

Chỉ nhiêu ấy thôi là đủ thôi thúc tôi đứng dậy, sánh vai cùng với anh dưới cùng một mảnh trời đêm, bên ngọn lửa bập bùng làm chiếu sáng hai khuôn mặt. Tôi đưa tay bắt lấy tay anh, nắm thật chặt và trả lời bằng một từ duy nhất, nhưng chắc chắn không nghi ngờ: “Được!”

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận