Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Những Vết Tích Không Thuộc Chu Kỳ

Lời Hiệu Triệu của Những Kẻ Báng Bổ

0 Bình luận - Độ dài: 2,689 từ - Cập nhật:

“CẦU CHÚA! HÃY ĐỂ CON CÓ THỂ VIẾT, ĐỂ CON CÓ THỂ VIẾT!”

——Tôi đang ở trong một tình trạng hết sức nguy kịch, với những cơn hoảng loạn và những bất ổn về tinh thần mà không một nỗi đau thể xác nào có thể sánh kịp. Nhưng với tất cả sức lực còn sót lại, tôi sẽ viết bức thư tuyệt mệnh này để kể lại khoảnh khắc cuối cùng của tôi, về trải nghiệm điên rồ mà tôi đã trải qua. MÀ THỀ CÓ CHÚA, TÔI MONG RẰNG ĐÓ CHỈ LÀ MỘT GIẤC MƠ!

Xin hãy biết rằng, tôi không mong đợi ai đó sẽ tìm thấy bức thư này, tôi sẽ đem nó xuống mồ cùng với mình nếu tôi có thể, và để cho nó mục nát cùng với da thịt của tôi, để nó không bao giờ được đón nhận ánh sáng, hay những cái nhìn soi mói của người đời! Vì vậy, nếu chẳng may tôi không thể chôn vùi lá thư này, nếu chẳng may bạn có vô tình đọc được những dòng dưới đây—điều có nghĩa là tôi đã xảy ra bất trắc trước khi kịp làm vậy, tôi mong rằng bạn hãy tha lỗi cho tôi và hãy cố gắng kìm nén sự hiếu kỳ của bản thân mà tiêu hủy nó đi. Tôi viết, nhưng là đặt bút xuống bởi tôi cần tìm lấy sự tỉnh táo cuối cùng của mình, cố gắng xâu chuỗi lại những gì đã xảy ra để có thể biết được tại sao tôi chết; mà không phải để nguyền rủa một ai đó sẽ đọc được những bí mật đen tối lẩn khuất giữa thực tại giả dối này, bởi lẽ con người sẽ mãi mãi không thể thoát khỏi sự bủa vây của chúng. Tuyệt đối không!

.

Khi ấy là lúc sáu giờ sáng, nhưng bầu trời vẫn tối đen như thể mới quá nửa đêm, không mảy may một dấu hiệu nào cho thấy bình minh sắp tới; điều đó thật quá hoang đường, bởi lẽ tôi sống ở Tokyo, trên đất nước Mặt Trời mọc! Đèn điện khắp phố Shibuya vẫn bật, đèn từ các tòa nhà cao tầng, từ hàng loạt xe cộ qua lại và từ vô số những quán hàng mở hai mươi tư trên bảy; chúng vẫn đang bật, nhưng tỏ ra ảm đạm một cách khó hiểu, chập chờn như thể chúng đang le lói những tia sáng cuối cùng trong trước khi bị bóng tối của màn đêm nuốt chửng. Sự trái ngược và ngột ngạt trong khung cảnh ấy làm tôi có cảm giác cứ như cả khu phố bị quay về thời kỳ sau thế chiến II đầy đổ nát vậy. Nhưng bất chấp sự phi lí đó, tôi vẫn bước ra khỏi cửa hàng tiện lợi sau ca trực đêm của mình mà không hề với bất cứ nghi hoặc nào; tôi chào hỏi với những nhân viên khác, với ông chú của cửa hàng, với những người mở sạp từ rạng sáng; và vẫn không có ai phát giác điều bất thường!

—ĐÁNG LẼ CHÚNG TÔI PHẢI NHẬN RA! Đáng lẽ chúng tôi nên nhận thấy điều bất thường vào khi ấy! Làm sao chúng tôi có thể không để ý đến sự ngột ngạt và lạnh lẽo đó được?—

Nhưng đã quá muộn. Tôi bước về khu trọ Rokenji dành cho người ngoại quốc với sự mệt mỏi bất thường, máy phát nhạc bên hông cọt kẹt thứ âm thanh gì đó nhưng tôi cũng chẳng buồn để tâm, dường như mây mù đang che đậy tâm trí tôi và chỉ để lại trong nó một suy nghĩ duy nhất rằng hãy trở về phòng trọ, và chỉ như thế thôi.

Tôi vào thang máy, bấm nút tới tầng số bảy và chờ đợi.

Đến bây giờ khi nhớ lại những sự kiện bất thường kia, tôi mới nhận thấy quãng thời gian đứng trong thang máy ấy cũng trở nên lâu dài dị thường. Nó giống như tôi chầm chậm lên từng tầng một, rồi có ai đó từ bên ngoài bấm nút khiến cho thang máy dừng một lúc nhưng cửa vẫn không mở ra, có ai đó đã bước vào thang máy nhưng tôi không nhìn thấy, rồi nó lại đi lên và lần nữa dừng lại; cứ thế liên tục sáu lần với hơn mười phút chờ đợi, tôi mới có thể bước ra khỏi đó—và tiến vào hành lang tối đen. Xung quanh không có một tiếng động, không có gió, cũng không có xào xạc tiếng lá từ những cây xanh phía dưới, trời đen kịt một mảnh không có trăng, cũng không có đèn điện chiếu sáng. Ừ, không có đèn điện. Khi ấy tất cả đèn đã tắt hết rồi sao? Chúng đi đâu rồi? Những rạp hàng mở sớm ở đâu?

Rồi tôi cứ tiếp tục lết từng bước một cho đến khi dừng lại trước số nhà 704, loay hoay một lúc mới lấy được chiếc chìa khóa trong túi ra để mở cửa. Ngay lập tức, một mùi hôi thối xông ra từ phía trong căn phòng, giống như mùi của xác chuột đang phân hủy trộn lẫn với những bãi nôn của chó để lâu ngày; tôi thề rằng là tôi không nhớ tại sao tôi lại ngửi thấy thứ mùi ấy, và cũng không rõ tại sao trong phòng trọ tôi lại xuất hiện mùi hôi đó, bởi tôi tin chắc rằng mình luôn giữ gìn căn phòng thật ngăn nắp nhất có thể. Điều kỳ lạ hơn là tôi không hề tỏ ra ghét bỏ hay kinh tởm vào khi ấy, trái lại, tôi đã bước vào phòng và đóng cửa lại với sự tự nhiên mà tôi không tài nào hiểu được. Và tưởng chừng như là cuối cùng tôi cũng đã làm ra một hành động nào đó ‘hợp lí’ khi nhanh chóng di chuyển đến chiếc cửa sổ phòng mà mở toang nó ra để đón nhận một đợt không khí trong lành mới; thì tôi lại sững lại. ‘Tôi’ của khi ấy đã đứng bên chiếc cửa sổ và nhìn lên bầu trời đen không trăng, như thể có thứ gì đó nằm ở đấy, hoặc như thể tôi đang nhìn vào một cãi rãnh sâu của vũ trụ, từ từ bị nó nuốt chửng.

Những điều xảy ra sau đó thì tôi đã không còn nhớ rõ, bởi đám mây mù đã chi phối tâm trí của tôi trong khoảng thời gian đó, giờ lại phủ lên ký ức của tôi một lớp màn che; và khi những hình ảnh ký ức trong tôi tiếp tục, đó đã là một giờ chiều.

—Những tiếng trống diễu hành đã đánh thức tôi dậy, vẫn trong trạng thái mơ hồ lúc rạng sáng. Thú thực, đó là những giai điệu dị hởm và kỳ cục mà tôi không miêu tả được—chắc chắn không giống bất kỳ một hình thức nghệ thuật nào mà tôi biết đến, từ âm sắc, cho đến giai điệu. Giống như khi người ta thường sẽ không để tâm tới những tiếng nhạc rời rạc, không rành mạch và vang lên không có hệ thống khi con trẻ của họ đùa nghịch với những nhạc cụ đồ chơi của chúng; thì một người nhạc sĩ với sự ám ảnh sâu sắc với âm nhạc có thể sẽ khó chịu vì điều ấy, thậm chí phát cáu vì nó. Và cái giai điệu quái dị khi ấy đã mang cho tôi một cảm giác chính tương tự như của người nhạc sĩ khi nghe những âm điệu trẻ con kia. Không, đó thậm chí là một cảm giác còn khó chịu hơn, ghê tởm hơn; giống như tôi là một người với cảm âm hoàn hảo, được trời phú tài năng nghe và hiểu rõ những tầng ý nghĩa sâu nhất của mọi bản hòa tấu trên đời; còn những nhịp trống kia lại là một thứ âm thanh báng bổ, kinh tởm, tràn ngập sự tà ác, rỉa vào tai tôi những tiếng của một dàn người đang la ó và liên tục dùng những chiếc nĩa sắc cào trên mặt bảng phấn vậy.

Tôi không phản ứng với điều đó, nhưng vẫn ngó ra bên ngoài một cách bản năng. Trời vẫn tối dù đã giữa trưa, nhưng dường như nó đã trở nên sáng tỏ hơn một ít bởi đoàn người diễu hành phía dưới.

Họ là một đoàn gồm vài trăm người, có thể nhiều hơn, đang luồn lách trên từng con phố nhỏ, vừa đi vừa gõ trống và hát vang một bài thánh ca dị giáo nào đó. Họ mặc những chiếc áo choàng màu trắng dài tới gót chân, đầu đội một chiếc mũ nhọn cao ba mươi centimet, đi chân trần, toàn cơ thể như được tạc phấn trắng với một vết gạch đỏ kéo từ giữa đỉnh đầu xuống dưới họng trên khuôn mặt.

Đường phố không còn một bóng người hay xe cộ nào ngoài những tông đồ kia, và với không một ánh đèn, cũng không có một tiếng động nào khác; giai điệu báng bổ đó cứ tiếp tục lan xa đến từng ngóc ngách. Và trong lúc đó, tôi đứng bên bệ cửa sổ từ phòng 704 của khu trọ Rokenji nhìn xuống họ với một vẻ mặt vừa đắm đuối vừa không cảm xúc; rồi miệng bắt đầu lẩm bẩm bài ca kia dù tôi vốn chẳng có ký ức nào về nó.

“Fafli artani fghl ur’a ~ Wghti-ar’sha. Vol’val’vel ~ Urgi phnltui...”

“FAFLI ARCTANI FGHL UR’A”

“WGHTI-AR’SHA—VOL’VAL’VEL—URGI PHNLTUI!!!”

Những câu hát vô nghĩa vang lên, lặp lại liên tục.

Những câu hát vô nghĩa vang lên, lặp lại liên tục.

Những câu hát vô nghĩa vang lên, lặp lại liên tục.

Những từ ngữ được thốt ra thuộc về một ngôn ngữ nào đó tôi không biết và cũng không có chút ấn tượng nào cứ tiếp diễn, làm cho sự khó chịu và ngột ngạt trong tôi cứ mỗi lúc càng lớn mạnh hơn. Tôi vẫn đang lẩm bẩm, nhưng ‘tôi’ của hiện tại, bất cứ khi nào nhớ lại những lời hát ấy cũng sẽ ẩn ẩn có dấu hiệu trở nên điên loạn, giống như tâm trí bị ai đó nắm chặt và cấu xé, và cơ thể cứ như bị ‘bóc tách’ ra và chìm vào một đại dương đen tối, ngấm ngầm vào sâu trong sự hỗn loạn mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả được.

Nhưng, những điều sau đó mới thật sự là khủng khiếp. Tôi sẽ không kể chi tiết những sự kiện ấy trong đây, bởi THỀ CÓ CHÚA—tôi không nghĩ rằng mình có thể chịu được sự tra tấn dã man về linh hồn khi nhớ lại những điều ấy; thậm chí ngay lúc này, chỉ là mường tượng một số những ấn tượng về CHÚNG cũng khiến tôi sởn gai ốc, toàn thân lạnh buốt, cứng đờ và toát mồ hôi nhễ nhại. Đây! Chính những dòng viết nguệch ngoạc và nhòe mực này chính là minh chứng cho điều đó!

Tôi khiếp hãi với CHÚNG! Bản thân tôi khi ấy cũng khiếp hãi CHÚNG bất chấp cái tình trạng mơ hồ kia! Tôi đã lấy lại được thanh tỉnh vào lúc đó—nhưng tôi mong rằng tôi đã không nên tỉnh lại—và sau đó tôi thét lên trong điên dại, mặc dù tiếng hét không vang ra, hoặc nó không vang ra một cách bình thường. Tiếng kêu ọp ẹp như xen lẫn một thứ tạp âm nào đó không thuộc về con người—đó không phải là tiếng kêu của tôi! Một tay tôi vội bịt miệng của mình lại trong sự ác cảm khó có thể nói nên lời, trong khi một tay khác quơ loạn xạ cố đóng lại ô cửa sổ và phủ lại tấm rèm. Trong sự tối đen của căn phòng, tôi nằm trệt ra dưới sàn, sõng soài và run lên bần bật, tâm trí không ngừng cố gắng lẩm bẩm những lời răn của Chúa để tìm kiếm một sự an toàn phù phiếm, và mãi cho đến tận bây giờ—tức mười hai tiếng sau, thì tôi mới có lại một chút can đảm để cầm bút lên và viết nên những dòng này.

Sự sợ hãi vẫn đang bao trùm lấy tôi, và nếu phải tóm gọn lại một cách mơ hồ nhất trong đây, tôi sẽ nói rằng những tiếng hát và những nhịp trống ấy dường như đã gọi lên một số sinh vật nằm ngoài hiểu biết của chúng ta, những con quái vật mà không một trí tưởng tượng nào có thể mô tả được! Chúng lẩn khuất sâu trong bóng tối, sâu trong những vết nứt của thực tế và ảo ảnh, mà tâm trí chúng ta không tài nào hiểu nổi. Với tiếng hát cất lên, chúng bắt đầu hiển hiện ra trước những con mắt phàm trần này; trời cao—không có trăng sao, không mây, không mặt trời; bởi lẽ những con mắt khổng lồ với đầy tơ máu đang nhìn xuống từ phía trên đó; mà phía dưới mặt đất là những xúc tu nhuộm đầy dịch nhờn ghê tởm và nứt toác vô số những kẽ hở vô ngần chắp nối nhau. Khắp mọi nơi, khắp mọi ngóc ngách, vô số những thứ dị dạng qua lại. Những con bạch tuộc đầu người, những hố thịt biết di chuyển, những thứ chất lỏng bầy nhầy...KHÔNG. KHÔNG! Tôi sẽ không tiến sâu thêm nữa!

Sự điên loạn trong tâm trí và sự phù phiếm của hư vô đang cắn nuốt lấy tôi khi tôi đang viết những dòng này! Quá đủ rồi!

HỠI CHÚA! Đó không phải là những gì mà con người có thể tiếp cận, CHÚNG là những thể sống nào đó mà không một ngôn từ có thể mô tả chính xác về cái dị dạng và khiếp đảm mà chúng mang đến! Đám dị giáo đó điên rồi! Chúng không nên thực hiện nghi thức kêu gọi những thể phạm thượng kia! Chúng định làm gì? Tôi không biết được, nhưng tôi tin chắc rằng nhân loại sẽ tự mình tuyệt diệt trước CHÚNG!!!

—Đây là sự kết thúc cho trải nghiệm của tôi, và tôi biết rằng mình sẽ không sống được lâu nữa. Tôi có thể sẽ chết vì điên loạn chỉ trong vài tiếng sắp tới, bởi đó là giới hạn mà thần kinh của tôi có thể chịu đựng được; hoặc tôi cũng có thể bị giết khi lũ tông đồ kia tìm tới, nếu chẳng may chúng đã phát hiện ra tôi. Không gì còn quan trọng nữa, bởi tôi ngờ rằng cái chết của tôi chỉ là một trong vô số những nạn nhân khác có số phận tương tự. Mọi thứ đã xảy ra giống như một giấc mơ, nơi đây rõ ràng không phải là thực tại mà tôi đã từng sinh sống, bởi tôi có một cảm nhận mơ hồ nhưng chắc nịch rằng nó là một rãnh thế giới nào đó sâu hơn, siêu hình và thực tế hơn so với thực tại, một nơi mà không một phương thức phàm trần nào có thể xâm phạm hay tiếp cận được; nhưng là nơi nào, tôi không rõ.

Với sự tỉnh táo nhỏ nhoi còn sót lại, mọi thứ nên kết thúc như thế này, tôi nên tìm kiếm một nơi phù hợp để kết thúc mạng sống của mình và chôn vùi bức thư này khi còn có thể. Hồi kết của tôi đang gần kề...không. Có gì đó lạ thường. Bỗng tôi cảm nhận được một sự bất an dữ dội, có một tiếng động nào đó! Có thứ gì đó trồi lên từ cái bàn! Một con mắt khổng lồ! ÔI CHÚA ƠI! ĐÓ LÀ CHÚNG! KHẮP MỌI NƠI ĐỀU LÀ CHÚNG!——

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận