Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chu Kỳ Shur'san'gal o'Ernlwgth

Kẻ Trốn Chạy Khỏi Cái Chết [III]

0 Bình luận - Độ dài: 5,732 từ - Cập nhật:

Vào sáng hôm sau, tức là ngày mồng 10 tháng 12, sau khi tỉnh lại từ cơn ác mộng dù đã quen thuộc nhưng vẫn không thể nào thích ứng; cái chết trong mơ đã làm tôi nhận ra rằng mình không có lí do để sợ hãi một giáo hội của những kẻ người trần mắt thịt nào đó—nhất là khi tôi vẫn chưa thể xác nhận đó là sự thực.

Tôi cần phải làm một điều gì đó. Ít nhất, tôi cần phải nắm bắt thời gian của mình.

Với ý nghĩ đó, tôi đã thu thập đồ đạc của mình nhanh chóng hết sức, đem theo một phần bản sao của bài luận văn, các bản chép tay của một vài trang trong cuốn 'Rituals of the Octagram', bộ đồ nghề khảo cổ và thêm hai bộ quần áo để dự phòng nữa. Nhưng trước khi chạy trốn khỏi thành phố, tôi vẫn cần phải đi đến thư viện Cambridge một lần cuối để thử tìm những thông tin liên quan tới giáo hội Bí Truyền N'lahyii như là sự bảo đảm tính chân thực cho những mảnh ký ức mơ hồ tôi đang nắm giữ.

Bảy giờ sáng, khi tôi đang chuẩn bị rời khỏi nhà trọ để lên đường đi tới khu lưu trữ những bài sách báo lịch sử ở thư viện đại học, bất ngờ rằng đã có một chàng trai trẻ đang chờ tôi ở dưới lầu—ngay sảnh chờ.

Đó là một cậu trạc tuổi tôi, cao khoảng độ sáu feet hơn. Nhìn qua trông có vẻ hơi ốm yếu với một bờ vai thõng xuống không quá rộng hay săn chắc, tuy nhiên, bằng một cách nào đó mà tôi vẫn có thể sâu sắc cảm nhận được một sự rắn rỏi bất thường ẩn phía dưới bộ vest đen truyền thống của anh ta. Và khi nhìn kỹ hơn, điều đầu tiên đã ngay lập tức thu hút tôi chính là một đôi mắt diều hâu màu biển toát ra thứ cảm giác mạnh mẽ cực kỳ ấn tượng, tuy không tràn đầy sức sống của tuổi trẻ nhưng lại thêm vài phần chững chạc và bén nhạy vô cùng. Thêm vào đó, chiếc mũi khoằm, cằm vuông, đôi môi mỏng và vầng trán rộng dường như đã tô đậm thêm phần tri thức và  cương nghị của anh ta. Những đường nét sắc sảo trên khuôn mặt sáng loáng đó—tôi nghĩ rằng người này là một người Anh gốc Pháp, hoặc cũng có thể là một người Pháp bản địa.

Ban đầu, ý nghĩ đã ngay tức thì bắn ra trong tâm trí tôi là anh chàng này hẳn phải là một người của giáo hội được cử đến để đưa tôi đi. Nhưng chỉ một giây ngay sau, tôi liền bác bỏ suy nghĩ này; bởi ở anh, tôi cảm thấy một sự thân thiết kỳ lạ.

Đó không phải là thứ tà thuật hớp hồn nào đó—tôi chắc chắn về điều đó—mà đó là vì người đang đứng trước mắt tôi đây cũng giống với tôi. Cả hai chúng tôi là cùng một kiểu người!

"Xem ra anh không coi tôi là một phần của nhóm người kia." Anh ta nói, với một nụ cười mỉm. Và sau khi nhận được cái gật đầu đồng ý của tôi, anh nói tiếp:

"Tôi là Andervista Hohenjun, học năm ba khoa Khảo cổ học tại Cambridge. Hẳn là anh đã từng nghe qua. Tôi nghĩ là anh có rất nhiều điều muốn nói, nhưng chúng ta không có nhiều thời gian đâu, hãy đi thôi—anh có việc cần tiến vào thư viện Cambridge, tôi cũng thế."

—Sau đó, cả hai chúng tôi đã đồng hành cùng nhau trên con đường Grange đến Thư Viện Đại Học. Chúng tôi đã khá kiệm lời trong khoảng thời gian này, vì thời gian được đặt lên hàng đầu đối với cả hai. Tuy nhiên, tôi cũng đã biết được vài điều về chàng trai trước mặt. 

Đúng là trong trí nhớ của tôi đã từng xuất hiện cái tên 'Andervista Hohenjun' này, anh ta là một học sinh xuất sắc khóa dưới mà giáo sư Wenger đã từng vài lần đề cập đến với tôi. Nhưng vì thời ấy tôi còn chăm chăm nghiên cứu và đọc sách nên đã không có thời gian để tìm hiểu thêm về anh ấy. Giờ thì tôi cũng biết được rằng Hohenjun là một người đã xuất hiện những triệu chứng y hệt tôi, nhưng với mức độ trầm trọng hơn nhiều, vậy nên cũng dễ hiểu khi anh ta biết nhiều điều hơn tôi.

Trên đường đi, anh ấy nói, "Anh không nên dùng chủ đề đó để viết bài luận, càng không nên đưa chúng cho bất kỳ ai khác. Đó là sai lầm của anh, Chris." 

"Tôi không hiểu? Cả anh và tôi hẳn đều biết được những giấc mơ của chúng ta là những bí mật duy nhất thực sự quan trọng của thế giới này, và với chỉ nguồn lực của riêng anh hay tôi thì chúng ta sẽ chẳng thể hiểu hết được chúng, dù chỉ một chút. Tôi công nhận là mình đã quá hấp tấp khi đưa bản thảo đó cho giáo sư Wenger, nhưng tôi vẫn tin rằng chúng ta cần sự trợ giúp của những bộ óc phi thường khác." Tôi phản bác.

"Vậy là anh chưa mơ đủ nhiều. Anh đã biết chúng là những điều cấm đoán, và chúng vượt trên thường thức của con người hay thậm chí là các quy luật của vũ trụ này, xa hơn thế nữa là những cõi giới giả tưởng; thế nhưng anh vẫn còn nghĩ rằng những kẻ phàm trần như chúng ta sẽ có thể xâm phạm tới lãnh vực của chúng ư? Nỗi sợ và những cái chết liên tục chưa khiến anh nhận rõ vấn đề sao? 

Chúng ta được đưa đến đó không phải vì chúng ta đã bước vào địa vực của chúng trong vô thức. Raaval—Cõi Thực, đó là vùng biển sâu được tạo ra để giúp chúng ta có thể phần nào nhận biết được bản chất đáng ghê tởm của thế giới này. Nó cho chúng ta biết cái gì mới thực sự là quan trọng, và cái gì mới nên là mối quan tâm cấp thiết. Nhưng nó chưa bao giờ có nghĩa rằng chúng ta được chọn để làm những người đi đầu trong công cuộc khai phá. Raaval là một phương thức để tự vệ, không phải là để xông đến cái chết.

Như H.P Lovecraft đã nói: 'điều nhân từ nhất trên thế giới này là việc trí óc con người không có khả năng tương quan với tất cả nội dung của nó. Chúng ta sống trên một hòn đảo yên bình của sự ngu dốt giữa biển đen vô tận, và điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đi xa.'—anh hiểu chứ?"

Trước những lập luận của Hohenjun, tôi im lặng. Đột nhiên tôi nhận ra rằng bấy lâu nay mình vẫn còn quá ngây thơ, rõ ràng là tôi đã nhận thấy rõ những sự khiếp đảm mà chúng đem đến, thậm chí trải qua nhiều lần chết đi sống lại chỉ vì một cái liếc nhìn. Tôi ý thức được sự cách biệt giữa đôi bên cũng giống như Chúa Trời và một con kiến nhỏ bé, thậm chí lớn hơn; nhưng cớ sao tôi vẫn viết mà không suy nghĩ gì cả?

Tại sao tôi chưa từng một lần nghĩ tới những điều này? Là khao khát? Một sự mê hoặc từ những giọng thì thầm sao?

Và như đã đọc được những suy nghĩ của tôi, Hohenjun nói tiếp: 

"Anh đã nghĩ đúng rồi đấy. Cái điên loạn vẫn luôn không ngừng gặm nhấm chúng ta, tôi và anh. Những giọng thì thầm trong tâm trí là một di chứng từ những giấc mơ, tiếng nói của chúng đôi khi rất rõ ràng, để cho ta có thể nghe được và từ chối được. Nhưng có những tiếng nói lặng lẽ hơn, ngấm sâu trong vô thức và đã tiêm nhiễm vào tâm thức chúng ta mầm mống của những cái khát khao điên rồ kia. Đôi khi chúng nhắc nhở chúng ta những điều tốt, nhưng không phải lúc nào chúng cũng đáng tin cậy. Trước những điều không thể biết, việc duy nhất mà chúng ta có thể làm là tiếp tục vờ như mình là một kẻ ngu dốt, chỉ như thế mới có thể bảo toàn tính mạng được."

Sau câu nói này của anh, chúng tôi đã rẽ vào Loverose và chỉ còn cách 350 feet nữa cho tới cổng thư viện. Vì vậy, cả hai đã không nói gì nữa, sự im lặng và trầm trọng bám vào bầu không khí. Chúng tôi đi qua cổng, tiến vào phòng đọc liền một mạch. Anh bạn mới quen của tôi đã ngay lập tức tiến tới một xó nào đó ở khu kệ sách tham khảo, trong khi tôi dừng lại ở kệ nghiên cứu và lật tìm các tài liệu ghi chép về lịch sử khu vực Đông Anglia trong khoảng từ bốn thể kỷ trước trở lại.

—Không có gì nhiều ngoài một chút thông tin lặt vặt, tất cả những gì mà tôi có thể tìm thấy được là một vài đoạn ngắn, và nó vẫn chưa khớp hoàn toàn. Đầu tiên tôi có thể chắc chắn một vài điều cơ bản về Hội Bí Truyền. Chúng có thực, từng bị truy đuổi, thờ phụng một Vị Thần dị dạng, và thành viên cũng sở hữu những mặt dây chuyền y hệt cái mà tôi đã nhìn thấy trong hốc bàn của thầy Wenger. Tuy nhiên, không có thông tin gì về việc họ đã từng thay da đổi thịt hay dính dáng gì đến vụ việc Anh Quốc xâm chiếm Ấn Độ làm thuộc địa năm 1858. Có lẽ Thư Viện Cambridge không có nhiều thông tin về mục này? Không. Nếu như thông tin về giáo hội đã xuất hiện trong đây, thì không lí nào những phần quan trọng như vậy lại bị bỏ xót—đặc biệt là khi nó liên quan đến một giai đoạn cực kỳ đặc biệt của quốc gia.

Điều này có nghĩa là gì? Hoặc là những ký ức của tôi đã bị thêu dệt, hoặc là những điều này nằm ở mức độ tuyệt mật mà tầng lớp như tôi chưa thể tiếp cận được—hoặc cả hai.

Nhưng nghĩ theo hướng nào, nó cũng còn quá nhiều vấn đề.

Ai có thể xâm nhập được vào bộ não của tôi trong khi nó vốn đã chứa quá nhiều điều cấm kỵ? Thần Linh? Tôi không nghĩ họ có đủ 'nhân tính' để làm điều đó.

“Anh chỉ cần chắc chắn một điều thôi, Chris. Rằng Giáo Hội là có thực, và rằng giáo sư Wenger có vấn đề. Anh đang nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta cần nhanh chóng rời khỏi đây.” Chẳng biết từ lúc nào mà Hohenjun đã đứng ngay cạnh tôi. Anh nói với vẻ bình tĩnh, nhưng tôi vẫn nhận ra được sự gấp rút trong đôi mắt của anh, và hưng phấn?

Tôi thấy bộ quần áo của Hohenjun trông có vẻ hơi bụi bặm, áo bị rách môt mảnh nhỏ trước ngực và trên tay anh còn cầm theo một cuốn sách khổ lớn, dày, cực kỳ cổ lão. Một cuốn tà thư khác, nhưng xa xưa và mạnh mẽ hơn nhiều so với cuốn của Iserish V. Himber. Chỉ cần một cái nhìn là tôi ngay lập tức biết thế. 

Chẳng nói chẳng rằng, chúng tôi ăn ý tìm cách thoát khỏi thư viện. Vì ngoại hình hiện tại của Hohenjun đang không quá tiện lợi để có thể hành động trực tiếp, vậy nên tôi chỉ đành xung phong dảm nhận công việc đánh lạc hướng thủ thư và thêm bốn người bảo vệ canh gác bên ngoài nữa.

Theo ánh nhìn động viên đến từ anh bạn đang đứng núp ở một góc phía xa, tôi tiến lại gần người thủ thư và tự nhiên bắt chuyện ông ấy, dò hỏi về một vài danh mục sách, trong khi một bên tay thuần thục móc ra từ túi áo bên hông một đồng Halfpenny rồi dùng nó gõ nhẹ lên mặt bàn. Đôi mắt của tôi nhìn thẳng vào ông ấy, từ từ di chuyển qua lại theo nhịp nói và tiếng gõ lanh lảnh của đồng xu, cứ như thế trôi qua khoảng năm-sáu giây đồng hồ. Và như thể đã trúng vào một loại ảo thuật thôi miên nào đó, mà đúng hơn là đã trúng vào một ma thuật điều tiết cộng hưởng não bộ thông qua những tinh chỉnh về sóng não—khuôn mặt của người thủ thư già bỗng tối sầm lại, hai mắt mất đi ánh sáng. Ông ấy chậm chạp đưa tay mò lấy phía dưới mặt bàn, và rung lên chiếc chuông khẩn kêu gọi những người bảo vệ bên ngoài tụ họp lại—để rồi một lần nữa, tôi lặp lại thủ đoạn nho nhỏ của mình. Và thế là đường đi đã trở nên thông thoáng. Chúng tôi sẽ có năm phút dư dả trước khi bọn họ tỉnh lại và ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra.

Làm xong việc, tôi quay trở về chỗ của Hohenjun, bỏ ngoài tai câu nói ‘anh thực sự rất có thiên phú trong lĩnh vực này đấy nhỉ?’ trông có vẻ hơi mỉa mai của anh ấy; và cả hai cùng đi ra ngoài bằng cổng phụ, hướng thẳng đến nhà ga Cambridge và bắt một cặp vé tới Oxford theo đề nghị của anh bạn mới quen của tôi.

Sau vài phút loay hoay trên chuyến tàu, bọn tôi mới có thể kiếm được một chỗ ngồi tốt, sát cửa nối và bên cạnh cửa sổ ở toa gần cuối. Khi này, tôi tiếp tục bắt chuyện với Hohenjun:

"Khi nãy anh đã đi đâu vậy? Và cuốn sách đó..."

"Tôi đã xuống một căn hầm ẩn phía dưới Thư Viện để 'mượn' lấy nó."—Anh nói, và lấy từ trong túi ra cuốn sách kia, "Phải thú thực là mọi chuyện khá phiền phức đấy. Vài năm trước, tôi đã định đi tìm một bản sao của cuốn sách này ở Bibliothèque nationale de France cơ—nhưng nhờ một vài nguồn tin đáng tin cậy, tôi biết ở đây cũng lưu trữ một bản tương tự, và thế là tôi đến theo học tại Cambridge. Ba năm, tất cả chỉ vì mục đích này. Chờ đợi một thời cơ thích hợp. Lẻn xuống căn hầm ẩn phía dưới Thư Viện Đại Học hai trăm mét, luồn lách qua một vài cái bẫy và cố lấy nó ra mà không để ai phát hiện." 

"..." Tôi trầm lặng nghe anh nói, và đưa hướng nhìn xuống cuốn sách kia. Bấy giờ, tôi mới nhận ra trên phần bìa trước của nó có khắc hoạ một hình vẽ ngôi sao tám cánh quái lạ ở trung tâm, bao quanh bởi bốn vòng tròn lệch lạc bất đồng đều—y hệt cái tôi đã từng bắt gặp xuyên suốt trong cuốn 'Rituals of The Octagram'. Và ngay xung quanh vòng tròn lớn nhất, có một dòng chữ Ulqthe chạy dọc—'Amantura bie Ithgwr'. Có vẻ là danh từ riêng. Cùng nhau, chúng đem đến một cảm giác tăm tối và hắc ám vô cùng, ngập tràn sự tà ác—

"Hẳn là anh vẫn còn rất nhiều thắc mắc. Ví dụ như tại sao tôi lại biết tới anh, tại sao trong đầu anh có thêm những mảnh ký ức kỳ lạ, hay tại sao cuốn sách này quan trọng với tôi đến như thế?—Vì chúng ta còn nhiều thời gian, nên tôi sẽ giải đáp lần lượt từng câu hỏi cho anh."

"Đầu tiên, anh cần biết rằng nhóm những người như chúng ta được gọi là Người Mộng Mơ Thực Tại—cái tên này chắc hẳn đã được nhắc nhở bởi những giọng nói trong đầu anh. Gọi như vậy là vì trong giấc mơ, chúng ta đi tới Raaval—tức 'Cõi Số Thực' trong tiếng Ulqthe—một biển sâu nằm tách biệt với mọi khái niệm hay phân bậc của mọi thực tại, hay nói đơn giản là thế. Và từ đó, nó phản chiếu lại một số hình ảnh từ Raahu—'Cõi Số Ảo'—một siêu thứ nguyên vượt mọi kích thước hay giới hạn thông thường. Điểm chung của hai nơi là chúng đều vượt quá mọi hình thức và phương diện vật lý mà chúng ta có thể hiểu được; nhưng trong khi Raahu coi cõi giới vật lý của chúng ta như những thực tại được phái sinh từ giấc mơ của chúng, thì Raaval đơn giản là nằm ngoài tất cả, cả chúng ta lẫn Raahu, và kết nối cả hai thông qua những con đường đặc biệt xuyên suốt hệ thống của hai bên. Đây chính là sự thực của thế giới này: Chúng ta đang sống trong thế giới thực, nhưng nó lại là một giấc mơ nhỏ lẻ so với những kẻ ở Raaval—giấc mơ mới là sức mạnh chủ đạo của toàn tại, và cõi mơ mộng thì thực hơn cả cái thực tế thông thường.

Tôi, anh, và nhiều người khác—chúng ta là những người được trao cho sức mạnh để chiêm ngưỡng điều cấm kỵ, những Đấng Sáng Tạo bên ngoài giấc mơ, để rồi từ đó tìm lấy sức mạnh để tự vệ. Cũng vì vậy, nhìn càng nhiều thì sẽ biết càng nhiều, với sự bảo vệ dần dần chúng ta cũng sẽ lây nhiễm lấy cái bản chất cấm đoán đó, có càng nhiều năng lực, siêu thoát khỏi thực tại này. Việc luận văn của anh đưa ra một hệ thống gần như trùng khớp hoàn toàn so với những gì mà tất cả các Giáo Hội Bí Truyền hay những người xưa đã viết ra từ trước là bởi vì tiềm thức của bọn họ lẫn chúng ta đều đã mơ hồ bị in lấy dấu ấn của miền thế giới bên ngoài giấc mơ kia—bởi chúng ta là những Kẻ Báng Bổ. Những tri thức mà chúng ta biết đều hướng tới những Cấm Kỵ đã có trước mọi sự, vậy nên những khái niệm và những ý tưởng nảy ra trong tâm trí của ta đều hướng đến cùng một tên gọi, một khuôn đã được quy định từ trước. Đến đây thì tôi có thể nói rằng, chính tôi là người đã đưa vào anh những mảnh vỡ ký ức ấy. Tôi đã để tâm trí anh đọc lấy 'phần thông tin' mà tôi đã thu thập được về Giáo Hội Bí Truyền N'lahyii. Tôi có thể làm thế, bởi tôi đã mơ nhiều hơn anh, do đó mạnh mẽ hơn. Anh chính là thời cơ của tôi."

Hohenjun nhìn vào mắt tôi bằng một vẻ rất thoải mái, như thể anh đang rất vui. Vui vì gặp được đồng bạn. Anh không hề suy nghĩ gì về việc tôi có thể sẽ nghi ngờ những lời này của anh—và đúng thế. Tôi biết nó là sự thực dù chẳng có một cơ sở vững chắc nào để tin.

"—Không nghi ngờ. Rất tốt, anh quả đúng là một người thích hợp để làm bạn."

"Anh giống tôi, vậy nên không có lý do gì để nói dối. Như vậy, thiên phú của anh trong lĩnh vực 'mơ mộng' này hẳn còn phải lớn hơn tôi rất nhiều." Tôi trả lời.

"Một phần là thế, nhờ sự cộng hưởng trong lúc truyền tải ký ức, tôi cũng đã biết vài điều về anh. Những giấc mơ đã đến với anh năm sáu tuổi, với tôi thì là ba. Nhưng thành thật thì tôi chỉ thực sự chắp nối lại mọi điều với nhau khi có người trợ giúp."

"Còn người nào khác ngoài chúng ta sao?"—Tàu đã đến Bedford. Còn gần hai phần ba chặng nữa cho tới Oxford. Một tiếng rưỡi.

"Iserish V. Himber—người đã viết ra cuốn 'Rituals of The Octagram' là ông cố của tôi, đồng thời cũng là một trong số chúng ta."

"!?"—Choáng ngợp, đó là từ ngữ duy nhất hiện lên trong tâm trí tôi lúc ấy. Nhưng chưa kịp để cho tôi nói điều gì, Hohenjun đã tiếp tục:

"Vào năm 1735, sau khi bản tà thư được công bố hai tháng, ông ấy đã biến mất không dấu vết. Trên thực tế, Giáo Hội Bí Truyền Omakath ở Pháp đã truy lùng ông ấy và khiến ông phải lẩn trốn sang Anh, thay tên đổi họ thành Manelo Hohenjun và sống ẩn dật trong phần đời còn lại. Anh có thể không biết về giáo hội này, nhưng tôi đã nghiên cứu về chúng suốt hơn một thập kỷ. Phải đấy, khi những đứa trẻ cùng lứa còn đang chơi trò đuổi bắt với nhau, thì tôi đã dùng phần thời gian ấy để nghiên cứu và thu thập thông tin. Và tôi có thể khẳng định rằng quy mô lẫn năng lực của giáo hội này vượt xa sức mạnh tổng hợp từ cả Bí Truyền N'lahyii lẫn tiền thân của nó là Bí Truyền Usmuhu ở Israel hợp lại. Như bọn họ nói—Lửa của Đấng Omakathiepth có thể đốt trụi sáu trăm sáu mươi sáu lần Gốc, và thêm sáu trăm sáu mươi sáu Gốc nữa; và bề tôi của Ngài có thể để cho ánh lửa phủ khắp sáu trăm sáu mươi sáu chủng tộc, và thêm sáu trăm sáu mươi sáu thế giới nữa. Dù Iserish có mạnh mẽ như nào đi nữa thì cũng không thể chống cự lại được một nhóm người đã rút lấy một phần sức mạnh từ các Vị Thần như họ được, huống hồ khi ấy ông thậm chí đã không còn là chính mình.

—Nhưng mặc dù nói là 'phần đời còn lại', thực tế thì ông ấy chỉ sống được thêm khoảng một năm nữa trước khi cơn điên loạn hoàn toàn xoá bỏ phần 'con người' trong ông. May mắn là ông ấy có vẫn còn đủ năng lực để tự sát. Vợ của ông—tức bà cố của tôi—đã bảo lưu lại các bản thảo nghiên cứu của ông cận thẩn, và đến đời tôi—Andervista Hohenjun; tôi không chỉ kế thừa thiên phú của ông ấy, mà còn sớm được bổ trợ bởi một nguồn lực rất lớn là những bản thảo kia."

"Cho anh biết thêm là, ngoài những bản thảo của ông cố, tôi còn từng nhận một sự trợ giúp khác nữa. Cô ấy là trưởng tộc đời thứ 11 nhà công tước Taggestern của Pháp đã sớm lui bại—Enola Taggestern. Cô chỉ hơn ba mươi một chút, nhưng như cô ấy bảo, mọi đời trưởng tộc của dòng họ này từ hệ thứ III trở đi đều là những Người Mơ Mộng, điều đó cũng giải thích được vì sao cô biết nhiều đến thế. Những thắc mắc mà cả tôi lẫn ông cố tôi chưa giải đáp được, cô ấy đã giúp hé mở chúng, và sau đó còn giúp tôi biết thêm đôi điều về các Giáo Hội Bí Truyền trải rộng khắp Châu Âu và Châu Á nữa."

Khoang phòng im lặng một lúc. Trước lúc này, mặc dù tin rằng trên thế giới có rất nhiều trường hợp giống với tôi, nhưng họ hiếm có đến mức tôi vẫn chưa thể gặp bất kỳ ai trong suốt hơn hai mươi năm. Và từ khi quen biết Hohenjun, chỉ mới vài giờ đồng hồ thôi mà tôi như đã được mở rộng một chân trời mới. Ít nhất là chín người thuộc nhà Taggestern, Iserish V. Himber, Hohenjun và tôi—mười hai người!

"Tuyệt vời nhỉ? Chúng ta không chỉ có một mình?"

"Ừ...gặp được anh có lẽ là món quà lớn nhất mà 'Thượng Đế' dành cho tôi—dẫu cho người không tồn tại." Tôi đáp lại câu hỏi của anh ấy bằng một nụ cười.

"Được. Còn lạc quan như thế là một dấu hiệu tốt. Vậy là một câu hỏi lớn đã được giải đáp. Chúng ta là ai? Còn giờ, ta cần phải giải đáp một câu hỏi lớn khác—Cuốn sách này là gì?" Hohenjun chỉ tay vào bản cổ thư.

—Bletchley, còn hơn một tiếng nữa.

"Để bắt đầu, anh phải biết tại sao tôi đi tới Thư Viện Đại Học Cambridge để lấy nó đi. Nhìn này—phần bìa cứng được làm từ da của một loài thú tên là Urikas, lai tạp giữa sử tử, trăn, cá sấu, sứa và một số loài vật kỳ lạ khác. Điều đặc biệt ở chất liệu này chính là da và thịt của chúng có đặc tính bất khả xâm phạm trước tất cả mọi loại tác động vật lý lẫn năng lượng siêu nhiên thông thường, ngay cả một vụ nổ tia Gamma ở ngoài vũ trụ vô biên cũng không thể gây cho nó một vết xước đâu. Có lẽ chỉ có đẳng cấp của một Vị Thần mới có thể phá huỷ được nó, như những vết tích mà anh có thể thấy. Và đây nữa—các trang sách này rất cứng và dày, với khổ sách của một cuốn Từ điển Tiếng Anh thông thường thì nó có lẽ chỉ chứa được chưa tới hai mươi trang. Tuy nhiên, trong này lại có tổng cộng tới sáu trăm chín mươi bảy triệu trang. LÀ HÀNG TRĂM TRIỆU ĐẤY, CHRIS! Thật phi lý nhỉ? Nhưng nó sẽ chẳng còn phi lý nữa nếu như chúng được cấu tạo bởi một loại vật chất siêu hình học với bản chất thuộc về một thứ nguyên cao hơn—từ Raahu. 

Vậy là không chỉ sở hữu khả năng lưu trữ khổng lồ, mà nó còn có đủ khả năng để ghi chép những điều cấm kỵ bằng ngôn ngữ Ulqthe dù vẫn chưa thể phản ánh mức độ sự thực hoàn toàn của chúng. Nhưng nhiêu đó là đủ, Ulqthe chỉ là một phương trình giải mã, nó vẫn chưa phải chìa khoá thực sự, và chúng ta cũng không cần thiết phải tìm thấy cái chìa khoá kia."

"Đây chính là Amantura bie'Ithwgr. Bên trong nó ghi chép về mọi điều cấm kỵ mà tác giả của nó—cũng chính là người đã trực tiếp sáng tạo ra bảng chữ cái Ulqthe bằng cách phiên dịch thô sơ những 'âm điệu' của các Vị Thần Mộng Mơ—tìm hiểu được và viết ra. Nó có niên đại từ hàng tỷ năm về trước rồi, vậy nên hiển nhiên cũng không thuộc về thế giới này, và có lẽ tác giả của nó cũng giống với chúng ta, chỉ là mạnh mẽ hơn vô số lần mà thôi. Cũng chính vì sự mê hoặc khó có thể cưỡng lại này nên rất nhiều người đều đang truy lùng nó. Trong vài thế kỷ trở lại đây, tôi chỉ biết được rằng có một bản sao được giữ ở BnF, và một bản khác ở Tu Viện Sarnath—Ấn Độ. Cuộc 'Binh biến lính Ấn' năm 1858 chính là một âm mưu của Bí Truyền N'lahyii nhằm chiếm đoạt cuốn tà thư này. Cho tới đầu năm 1961 thì giáo sư Wenger mới được mệnh lệnh đưa nó về Thư Viện Đại Học Cambridge để cất giữ."

"—Giáo sư? Ông ấy được phụ trách trông coi cuốn sách?"

"Đúng vậy. Ông ấy có thể là một trưởng lão hoặc một người phối dược của giáo hội. Và chắc chắn là người nắm giữ quyền chức cao nhất ở phân nhánh Đông Anglia này. Vài ngày trước, trong cuộc thảo luận giữa anh và giáo sư, tôi có bí mật quan sát và nghe lén từ xa—đương nhiên là nhờ vào một loại bí thuật nho nhỏ. Anh biết không, cái lúc mà anh đứng ở một bên và quan sát sự mải mê của ông ấy với bài luận, đó thực tế là ông ấy đang xác thực và bổ sung thêm một số điều đã được anh cung cấp—dù sao thì những người như chúng ta luôn biết rất nhiều mà, đôi khi một giáo hội với hàng trăm năm truyền thống cũng không thể lặn sâu được như chúng ta. Đương nhiên là cùng lúc đó, ông ấy cũng đang từ những phần thông tin đó để suy ra quá khứ của anh, nhìn vào con người thật của anh."

"...Ra là vậy, tôi gần như đã hiểu rõ mọi vấn đề rồi. Giáo hội. Cuốn tà thư, anh và tôi. Chúng ta. Như vậy, bây giờ anh muốn làm gì? Oxford là nơi mà giáo sư đã đến, những hội viên của N'lahyii ở đó hẳn sẽ rất nhiều, chúng ta định đương đầu với họ sao?"

"Ừ. Anh đã tạo một thời cơ thích hợp để tôi có thể lấy được cuốn sách. Tôi cần những kiến thức trong này để giải thoát chúng ta, nhưng trước hết, tôi cần nó để giúp anh đã."

.

Khoảng mười lăm phút còn lại của chuyến đi là lời giải thích của Hohenjun về kế hoạch mà chúng tôi sắp thực hiện. Anh ấy nói rằng trong cuốn sách có một nghi thức 'Lãng Quên' có thể để cho phần nội dung trong bài luận văn của tôi 'biến mất' khỏi ký ức của mọi người. Duy chỉ có 'giá trị' của nó vẫn sẽ được giữ lại trong ấn tượng của tất cả những người đã biết, và sẽ biết tới nó; như vậy là các tác động xấu mà nó mang lại cũng sẽ bị xoá bỏ hoàn toàn và những người thuộc giáo hội sẽ không còn để tâm tới tôi nữa. Trong khi đó, điều kiện để nghi thức diễn ra một cách hiệu quả nhất là chúng tôi cần thực hiện nó tại Oxford—thành phố nơi tọa lạc Thánh Đường Trung Tâm của Hội Bí Truyền N’lahyii. 

Sau khi xuống tàu tại ga Oxford, cả hai chúng tôi chia nhau ra theo kế hoạch đã bàn. Hohenjun sẽ đi tìm vị trí cụ thể của Thánh Đường và thám thính, trong khi tôi phụ trách việc chuẩn bị cho nghi thức.

Tôi nghĩ rằng bí thuật này thuộc về phạm trù của các hình lễ khá đơn giản, và thậm chí rất có thể là không có ý nghĩa mấy đối với các Hệ Thống Nghi Lễ và Giáo Điều đã được ghi chép trong cuốn Tà thư Amantura. Bởi xét theo mục tiêu và tính chất của nó, đó chỉ đơn giản là một hình thức 'can thiệp nhận thức sự kiện' trên phạm vi của những kẻ người trần mắt thịt. Mặc dù có thể xoá bỏ đi quá trình được gây ra bởi ‘nhân’ và tiến thẳng đến ‘quả’ mà không lưu giữ lại bất kỳ một tác động tiêu cực nào, nhưng sự hạn hẹp trong tinh năng của nó vẫn sẽ không thể giúp nó chiếm một vị trí quan trọng hơn trong hàng ngũ các Lễ Thức được. Hay nói đơn giản hơn là, nghi thức này vô dụng trong phần lớn trường hợp, bởi lẽ nó không hề hướng tới các vĩ lực cao hơn, không đụng chạm gì tới lĩnh vực của các Vị Thần và cũng không là gì so với quyền năng của họ. Và tôi cũng đoán rằng, thể là nghi thức này đã từng được dùng vào những mục đích tương tự từ trước kia giống như trường hợp của tôi hiện tại, có lẽ nó được tạo ra là vì những tình huống như thế này,

Như những mô tả trong cuốn sách đã được Hohenjun phiên dịch và đọc lại cho tôi, tất cả những gì mà tôi cần chỉ là một bình máu tươi đủ to và lớn để vẽ các hoạ tiết Ulqthe cần thiết—bao gồm biểu tượng Yahal ở trung tâm, và sáu lần bộ chín các chữ Rult, Haiti, Nayath, Issthi, Zalphon, Omeketh, Okath, Anaalao’Syingwh bao quanh nó theo những kích cỡ và toạ độ phân bố khác biệt đã được quy định sẵn theo tỉ lệ quy mô—và thêm một bình máu nữa chỉ để đảm bảo rằng chúng tôi vẫn còn thừa đủ một lượng rải đè lên trên những hình vẽ đó nếu như phần máu trước đó bắt đầu khô và thấm hẳn vào nền đất. Để chuẩn bị cho yêu cầu này, tôi đã tìm đến một lò mổ gia súc ở bên ria thành phố, và ‘lịch sự xin phép’ những nhân viên ở đấy dể mượn lấy lượng huyết tương mình cần. Hiển nhiên, mọi chuyện diễn ra không có một chút khó khăn nào ngoài việc tôi đột nhiên nhận ra rằng dường như tần suất sử dụng những phép lạ được ban cho nhờ “Những Giấc Mơ” của bản thân đã tăng vọt trong những khoảng thời gian gần đây. Đó là một dấu hiệu không mấy tích cực khi mà tôi tin rằng những món quà từ các Giấc Mơ ấy chưa hẳn đã là miễn phí, và cũng chưa hẳn đã là tốt đẹp và được phép tiện lợi sự dụng như vậy. Tuy nhiên, như Hohenjun đã nhắc qua, miễn là tôi vẫn kiểm soát được sự tỉnh táo của mình thì mọi chuyện đều còn nằm trong tầm kiểm soát—thế nên tôi đã nhanh chóng bỏ chuyện này ra sau, tự hứa rằng sẽ xem xét lại điều này vào một thời gian khác. 

Khoảng tám giờ tối đó, tôi và Hohenjun tụ họp lại tại dưới chân Tháp Carfax. 

"Chúng ta gặp may đấy Chris! Tối nay lũ người của giáo hội sẽ tổ chức cuộc họp cuối cùng để giải quyết về trường hợp của anh, bọn chúng sẽ tập trung hết ở Thánh Đường ẩn phía dưới chân Vườn Bách Thảo Botanic. Là thời cơ của chúng ta đấy."—

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận