Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chu Kỳ Shur'san'gal o'Ernlwgth

Kẻ Trốn Chạy Khỏi Cái Chết [II]

0 Bình luận - Độ dài: 4,240 từ - Cập nhật:

“Vâng thưa thầy, em hoàn toàn có nguyên do để liên hệ chúng với nhau, bởi chính em đã bị ám ảnh bởi những giấc mơ như vậy nhiều hơn ai hết. Em sẽ kể lại cho thầy về chúng, và em cũng mong thầy biết rằng, những điều sau đây mà em nói hoàn toàn là sự thực...”

.

Phần còn lại của buổi trò chuyện hầu như là quá trình tường thuật lại những giấc mơ mà tôi đã trải qua, và giáo sư Wenger ở một bên lắng nghe. Thỉnh thoảng ông ấy lại viết ra một vài những dòng lưu ý trong cuốn bút ký và hỏi tôi các chi tiết lặt vặt, đôi khi góp ý với sự chân thành sâu sắc, như những gì mà tôi đã mong đợi từ thầy ấy. Có vẻ như lựa chọn của tôi là chính xác, và những giọng nói thì thầm ấy đã sai.

Tôi đã kể lại cho giáo sư từ những triệu chứng đầu tiên của tôi từ năm lên sáu—khi tôi đã có một trí thức tương đối hoàn chỉnh—rằng cứ mỗi lúc đêm đến và khi tôi đã chìm vào giấc ngủ sâu; tôi sẽ lại mơ về một đại dương hỗn mang không đáy xa lạ nơi bản thân không ngừng 'chìm xuống' một cách không thể kiềm chế. Tôi cứ thế bị kéo xuống sâu dưới hàng ngàn vạn mét so với mặt biển, cho đến những rãnh sâu lạnh buốt mà ánh sáng đã không thể vươn tới.

Và tại đó, khi tưởng chừng màn đen tăm tối đã bao phủ toàn bộ không gian, chỉ để lại trong nó sự ngột ngạt hãi hùng và cơn đau căng cứng tột độ của những mảng thần kinh; thì đáy biển sâu lại đột ngột le lói những tia sáng màu xanh lục dị lạ. 

Rồi từ từ, với tiếng rống dữ dội từ nơi lòng biển vang lên, những hiện diện cho nỗi kinh hoàng lớn nhất của con người—nỗi sợ về 'những điều chưa biết' bắt đầu để lộ hình hài của chúng trước mặt tôi. 

Thành thật mà nói, tôi đã luôn cố gắng quên đi những hình ảnh ấy suốt bấy lâu nay; bởi đó là những dạng thức dị hởm và cực kỳ lố bịch, là những mộng tưởng kinh dị nhất mà chính Howard Phillips Lovecraft hay Clark Ashton Smith có thể viết ra—chúng là những Vị Thần hoàn toàn của vũ trụ, nắm giữ những dạng thức vượt qua mọi trí tưởng tượng và sở hữu những quyền năng cực đoan khủng khiếp, nhưng chỉ hiện diện như những khối u ác tính và toát mạnh ra cái vẻ ác độc lại tràn đầy sự thờ ơ của chúng!

Dưới biển sâu, chúng ở trước mặt tôi! Trước mắt tôi! Xuyên qua thân thể tôi!

Nhưng dường như bởi một sức mạnh lạ kỳ nào đó mà chúng không hề để tâm tới tôi, chúng vẫn tiếp tục cơn say của mình trong cơn gầm gừ chói tai một cách vô thức ấy và thây kệ mọi thứ đang xảy ra bên ngoài. Và cũng chính thứ sức mạnh ấy đã kìm hãm tôi khỏi bất kỳ hành động nào. Không thể gào thét, không thể cựa quẩy, thậm chí không thể có bất kỳ tư tưởng nào khác trong cái giờ phút ấy ngoài nỗi kinh hoàng tột cùng! 

Dù vậy—chính việc nhìn vào những thứ ghê tởm ấy và quái thai ấy cũng đã mách bảo cho tôi nhiều điều. Phải nói, và khẳng định một cách chắc nịch—là tôi đã không cố gắng để tìm hiểu, mà chính những kiến thức cấm kỵ đã tự chúng chui vào trong đầu tôi, bắt buộc tôi phải tiếp thu những điều báng bổ đó bất chấp sự đau điếng mà chúng gây ra cho tôi.

Càng nhìn vào chúng càng lâu, tôi lại biết được càng nhiều điều. Và càng chìm xuống càng sâu, tôi lại càng thấy được nhiều những dạng thức ghê tởm hơn. Những hiện diện ấy trừu tượng ư? Đúng, thậm chí tôi nghĩ rằng chỉ là 'trừu tượng' thôi thì sẽ chẳng thể đủ để nói về chúng, nhưng một số trong đó thì không. Tôi lờ mờ có được một nhận thức rõ về chúng đấy, những khối vật chất và năng lượng độc lập duy nhất nhưng vượt khỏi các định nghĩa và khái niệm của thế giới bốn chiều, và với trạng thái kỳ lạ của mình, tôi tin là mình có thể mô tả lược qua một vài cái trong số đó. Thứ ngôn ngữ được hình thành từ những tiếng kêu quái dị tràn vào trong tâm trí tôi—Ulqthe, cái mà Iserish V. Himber đã khám phá ra; và nó giúp tôi hiểu được chúng, nhưng tôi biết rằng nếu mình nói ra dù chỉ một từ, cái chết sẽ ngay lập tức ập đến.

Chính những Vị Thần ấy là nguyên do mà tôi đã liên kết những 'giấc mơ' vượt thường thức với các nghi thức cổ xưa, bởi đôi khi những dạng thức ấy vô tình trùng lặp—dù chỉ một phần rất nhỏ, với những họa tiết xưa cũ, với những vị thần báng bổ và vô danh mà con người thời nay sẽ không bao giờ có thể biết được; và bởi tôi biết rằng ngoài kia—trong suốt lịch sử của nhân loại, còn nhiều những người giống như tôi và họ hẳn đã nhiều lần khắc họa ra những hình tiết đó. 

Họ, trong sự điên loạn, có thể đã coi những tồn tại kia là các Vị Thần—và có lẽ chúng thực sự là. Họ đã thờ cúng, chạm khắc, lập những nghi lễ và viết ra những văn tự cổ khó hiểu; rồi cuối cùng dẫn tới những kết quả trong bài luận văn của tôi.

Nhưng về phần tôi? Tôi nghĩ rằng sự điên loạn đã sớm chiếm lấy tôi, từ ngay lần đầu tiên tôi gặp cơn ác mộng khủng khiếp đó; nhưng chúng chỉ có thể trỗi dậy và hoàn toàn khiến tôi mất tự chủ như một tên dại khi tôi mơ, để tôi sau đó chết đi trong cơn điên loạn ghê tởm. Lúc tỉnh táo thì không được, bởi lẽ nguồn sức mạnh kỳ lạ kia đã bảo vệ tôi khỏi chúng.

Tuy nhiên, mặc dù luôn chìm vào biển sâu mỗi khi đêm đến nhưng không phải lần nào tôi cũng có thể chạm mặt những Vị Thần ấy, đó là một điều may mắn—hoặc ít nhất là đã thực sự dễ dàng hơn cho tôi bởi cái cảm giác chết đi liên tục nhưng lại không thực sự chết đi, bị nhồi nhét liên tục đến phát nổ nhưng lại không thể phản kháng, và chứng kiến vô vàn những thứ phản cảm chỉ có thể mang đến nỗi hãi sợ và tuyệt vọng tột cùng ấy; đó là một sự tra tấn khủng khiếp vượt xa vô số lần khỏi những gì mà nỗi đau thể xác có thể mang tới.

Vào những đêm may mắn kia, khi màu đen thuần túy đã trùm lấy hoàn toàn không gian xung quanh, và thay vì những dải màu xanh lục xuất hiện, thì tôi như bị 'bóc tách' ra khỏi đáy biển sâu và đi đến nhiều thực tại khác. 

Có đôi lúc tôi thấy mình đang ở trên một con xuồng nhỏ màu trắng, trôi nổi theo dòng nước trong vắt của đại dương bao la dưới một bầu trời đêm đầy sao. Đó không phải là biển sâu nơi tôi chìm xuống, bởi tôi có thể thấy rõ đáy biển ẩn phía dưới mặt nước; xa hơn khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng, nhưng kỳ lạ là màu nước trong vẫn cho phép tôi nhìn thấy lờ mờ những gì phía dưới. Có nhiều thành phố với những công trình phi hình học, nhiều hòn đảo với những sinh cảnh huyền ảo và nhiều những nền văn minh dị biệt được cai trị bởi những chủng tộc ngoài hành tinh; mỗi một nơi tôi đi qua đều có thể chứng kiến vô số những mảng giả tưởng khác biệt tưởng chừng như chỉ có trong trí tưởng tượng của con người.

Cũng có đôi lúc, tôi thấy mình như tự dấn thân đi vào những miền lạ dưới kia. 

“Miền Mộng Mơ Phàm Trần, nơi những kẻ người trần mắt thịt đến khi mơ ngủ, có những ảo tưởng đẹp đẽ, nhưng cũng chất chứa những ác mộng đen tối.”

“Thành Phố Nghĩ Suy, nơi chứa đựng mọi suy nghĩ và những vẩn vơ đã có, đang tồn tại và sẽ xuất hiện trên đời; nơi cất chứa những điều mới lạ, những mảnh bí ẩn mà ta sẽ khám phá ra trong tương lai.”

“Vương Quốc của Ngàn Tín Ngưỡng, nơi mọi câu chuyện được sáng tạo ra, những tín ngưỡng được chắp nối và vô số thần thoại được kết tinh."

“Thiên Niên Tàng Thư Viện, nơi ghi chép tất thảy mọi sự, và chứa đựng tất cả những gì đã định hình và tất thảy những gì tiếp tục định hình cho mọi thứ trên đời.”

Và tôi thấy những người tự xưng là Nhân Loại của hàng trăm tỷ năm sau, những Neo-Human cư ngụ trong các tháp canh ở miền viễn tưởng độc lập với dị thế. Tôi thấy Altas'ollin, những du khách của thời gian và không gian—dòng người có thể thả mình theo dòng lịch sử của vũ trụ. Ramunhu, Natoplika, Swefihnoh...vô vàn, vô cùng...

Thoạt nhìn, tôi mở mang được nhiều điều mới lạ và tốt đẹp, nhưng bất chấp cho tính mơ mộng kỳ huyễn ấy, cái cảm giác kinh hoàng và ngột ngạt vốn có từ nơi biển đen vẫn chưa từng rời bỏ thân tôi. Những sự mà tôi nhìn thấy càng đẹp đẽ, thì cái trái ngược bất thường trong tâm trí và thứ cảm giác khó chịu ấy lại càng tăng thêm nhiều lần. Để rồi cuối cùng chúng đạt tới một giới hạn nào đó, tôi sẽ lại nổ tung thành một đống bầy nhầy nhơm nhớp và xú uế, như thể cái chết vẫn luôn chờ đợi ở cuối mọi con đường. Giờ đây tôi kể lại bằng một giọng văn vô cảm, bởi những cảm giác của tôi hầu như đã bị tê liệt mạnh mẽ khi nghĩ tới những mảnh mờ ký ức nhưng hằn sâu một cách bất thường kia; bởi phía sau sự tra tấn dai dẳng không hồi kết đó—ấn tượng là thứ duy nhất vẫn còn, và tiềm thức vẫn luôn lưu giữ lại những ác cảm thuở đầu tiên.

—Cho đến bây giờ, tôi đã nhiều lần bật dậy từ những cơn ác mộng khiếp đảm đó, tôi biết rằng những mộng tưởng tốt đẹp thực sự đã sớm rời bỏ tôi. Tôi đã nhiều lần đi tới giới hạn của mình trong những cơn mộng, và nhiều lần chết đi về mặt ý thức, linh hồn hoặc dưới những hình thức khác nữa. Não tôi bị nhão toẹt ra bởi sự xâm phạm cấm kỵ đó, và cơ thể bị nổ tanh bành bởi lượng kiến thức, hay những cảm xúc tiêu cực đã đầy ắp đến mức hóa hình thành vật chất—thứ vật chất vô hình, nhưng vô biên vô tận, của lửa khởi nguyên và những màng lỏng vô danh, không thể chống cự... 

.

Với những trải nghiệm điên rồ mà tôi đã trải qua, cũng như đã cố gắng để kể lại một cách chi tiết nhất có thể với giáo sư Wenger mà không phải đào quá sâu vào những điều báng bổ, tôi tin rằng và cũng biết chắc rằng những điều mà tôi đã trình bày trong bài luận văn là đúng, mặc dù đó rất có thể chỉ là một phần rất nhỏ của tảng băng trôi—một phần rất rất nhỏ của lục địa băng tràn ngập những điều không thể biết nhưng đã phần nào ẩn ẩn hiện diện trong bộ gene của mọi sinh vật sống.

Nhưng cũng từ thời điểm này—khi màn tự thuật của tôi đã kết thúc, những biến động mới chính thức xuất hiện. 

Giáo sư Wenger nói với tôi rằng ông cần một thời gian để tiêu hóa những điều tưởng chừng như phi lí mà tôi đã kể, vì vậy ông ấy đã xin phép tạm dừng cuộc trò chuyện và hãy để ông ấy thêm một thời gian xem xét. Tôi rất sẵn lòng với điều ấy, bởi lẽ mục đích 'chia sẻ những bí mật kinh hoàng' của tôi đã hoàn thành. 

Tôi cho rằng với sự trợ giúp của những người thông thái như giáo sư, có lẽ chúng tôi sẽ làm sáng tỏ được những bí ẩn lớn nhất của lịch sử? Và phần nào, cũng có thể giúp tôi tránh thoát sự tra tấn ấy?

Rõ ràng, tôi đã quá ngây thơ vào thời điểm đó. Sự ngạo mạn của tôi đã phải trả giá đắt sau này, và đến tận bây giờ nữa. 

—Những ngày tiếp theo ở Cambridge của tôi đã trôi qua một cách tưởng chừng như yên bình; những cơn gió đông vẫn cứ đến và đi, tuyết bắt đầu rơi từng đợt đầu tiên, dòng người vẫn qua lại trên những con phố, ai nấy đều có việc của mình và cũng chỉ chăm chú tập trung vào công việc của họ—không muốn làm vướng bận nhau, mọi thứ đều diễn ra không khác gì thường ngày. Nhưng tuy nhiên, tâm trí tôi lại đưa ra những ác cảm mãnh liệt trái ngược hoàn toàn đối với những khung cảnh thường nhật bình lặng đó, cứ như có thứ gì đó giả tạo đang được che giấu, và cái ác, sự đen tối cùng những điều bất tường đang lục đục phía dưới lớp màng ấy, chờ đợi thời cơ để chọc thủng nó ra và mang tới sự hỗn loạn không ai ngờ được.

Tôi không còn nghe tin gì từ thầy Wenger ngoài việc ông ấy đã quyết định lên đường đến Đại Học Oxford vào sáng hôm sau—có thể ông ấy muốn đi tìm thêm tư liệu, hoặc là hội họp với những bộ óc vĩ đại khác, nhưng cũng có thể nó thậm chí còn chẳng còn liên quan đến bài luận văn của tôi, có lẽ nào ông đã nhận được một tin tức khẩn cấp nào đó và bắt buộc phải rời đi ngay hôm sau? 

Dù đã phỏng đoán rất nhiều và luôn hướng tới những kết luận tích cực nhất có thể, nhưng tiềm thức tôi biết rằng có điều gì đó không ổn đang xảy ra. Những giọng nói thầm thì kỳ lạ đã hình thành nên từ vòng xoáy vô tận của những màn tra tấn tinh thần khiếp đảm mà tôi đã phải trải qua bấy lâu nay vẫn luôn thì thầm trong tôi, và nay chúng nói với tôi rằng giáo sư chưa bao giờ là một người thật thà, tối bụng hay đáng tin tưởng; chúng nói rằng ông ấy vẫn luôn ẩn giấu bản thân mình dưới một lớp mặt nạ—bởi lẽ ông cũng là một phần của giáo hội cổ xưa—Giáo sư biết về bọn chúng, biết về những Vị Thần ấy.

Stephen J. Wenger là một tông đồ, và ông ấy đang tìm đến những người bạn của mình để thảo luận về những điều mà tôi đã viết ra! Bọn họ sẽ tìm cách xử tử tôi vì dám viết ra những điều thuộc miền cấm kỵ! Bọn chúng sẽ sớm săn lùng tôi!

Đó là những điều mà chúng đã luôn lặp đi lặp lại với tôi. Những tiếng nói vẫn cứ vang vọng mãi dù chẳng đạt được đáp lại, những tiếng khàn khàn rên rỉ đó, chúng đang muốn nhắc nhở tôi? Hay là tiêm nhiễm vào đầu tôi những suy nghĩ xấu xa?

Tôi không thể phán đoán được. Nhưng trong khi cứ đi đi lại lại trong căn phòng trọ với tâm trí còn lo nghĩ mãi, tôi sực nhớ tới một việc.

Đã từng có một lần tôi đi tới thư phòng của giáo sư Wenger để lấy đi vài cuốn tài liệu theo lời nhờ vả của thầy ấy, có lẽ là vào tháng tư năm ngoái.

Tôi vẫn còn nhớ rằng khi đó, tôi tiến đến bàn làm việc của ông để lấy đi hai chồng sách có nguồn gốc từ Ả Rập, nhưng không may sự cồng kềnh của chúng đã khiến tôi có chút mất thăng bằng trong quá trình vận chuyển và để cho cuốn ‘Kulu shay' ean Alshayatin’ văng xuống phía sau cái bàn gỗ.

Bất đắc dĩ, tôi đã phải đặt xuống phần tài liệu, và đi vòng ra sau cái bàn để nhặt cuốn sách lên. Nhưng điều này bất ngờ lại cho tôi biết được rằng phía dưới bề mặt của cái bàn làm việc ấy có ẩn giấu một cái hốc sâu kỳ lạ, được thiết kế để chỉ có thể nhìn thấy khi cúi xuống nhìn vào trực diện. Vào lúc ấy, bản tính tò mò đột nhiên trỗi dậy dữ dội trong tâm trí tôi đã buộc cho tầm mắt của tôi dừng lại tại cái hốc đó một vài giây, vừa đủ để tôi loáng thoáng thấy được một mặt dây chuyền đang nằm gọn trong đó—với thiết kế kiểu Opera rất đơn giản. Phần dây mạ vàng được đan vào nhau theo kiểu Curb truyền thống, và cuối cùng thắt nút vào một cái khuôn nhỏ hình thoi thon gọn, đính trên đó một viên ngọc lục bảo sáng lấp lánh. Mà khi nhìn kỹ hơn, tôi còn có thể thấy được mặt bên trong của nó có in lên một dòng chữ ngoằn ngoèo với hàng chục nét trong mỗi một ký tự, và tua rua ra như những cái xúc tu nhỏ—đúng đấy, chúng chính là ngôn ngữ Ulqthe!

Đây chắc chắn không phải là một sự trùng hợp. Khi ấy tôi còn chưa được tiếp cận với thứ ngôn ngữ kia nên đã không để ý nhiều, nhưng bấy giờ thì khác. Liệu những gì mà những giọng thì thầm kia nói có đúng? Hiện tại tôi đã có đầu mối để tìm hiểu. 

Ngay lập tức, tôi lật tìm một vài bản phác thảo về bảng chữ cái Ulqthe mà tôi đã chép được trong cuốn "Rituals of the Octagram" và đối chiếu với những mảnh ký ức trong đầu. Bởi lẽ những Vị Thần, giấc mơ và Ulqthe có liên hệ rất mật thiết với nhau; thế nên như một nạn nhân đã bị chúng ám ảnh sâu sắc, tôi vẫn còn nhớ rõ những hình chữ mà mình đã nhìn thoáng qua.

Bí Truyền Cổ Lão N'lahyii—bảng giải mã đã nhanh chóng cung cấp cho tôi cái tên này. 

Và trong sự ấn tượng tràn đầy ác cảm đột ngột bắn ra, tôi bàng hoàng nhận ra rằng đây là một nhóm tín đồ 'dị giáo' đã từng hoạt động mãnh mẽ ở vùng Đông Anglia nước Anh vào khoảng cuối thế kỷ XVI cho đến đầu thế kỷ XIX, chủ yếu tập trung quanh khu vực Norwich, Cambridge và Ipswich. Trong mắt của công chúng, họ là những kẻ dị giáo báng bổ bị ghẻ lạnh và hắt hủi vô cùng, thậm chí đã từng có khoảng thời gian dân chúng đã hợp lực truy lùng các thành viên của giáo hội vì phản cảm khi bọn họ dám lan truyền những tín ngưỡng cực đoan đầy man rợ—những vụ việc mà lịch sử ngày nay vẫn ghi chép lại như là các cuộc truy lùng phù thủy. Sự bài trừ mạnh mẽ đến mức bọn họ đã phải chuyển hoạt động của mình thành những buổi truyền giáo kín đáo với quy mô nhỏ hơn, và sau đó là biến mất hẳn khi cuộc chiến tranh Napoleon mở ra năm 1803.

Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng giáo phái vẫn còn hoạt động cho đến tận bây giờ, và sự biến mất của chúng trên mặt nổi chẳng qua là sự cải cách trong cuộc thay da đổi thịt năm 1815. Giờ thì chúng đáng sợ hơn, cực đoan hơn và bí hiểm hơn nhiều so với lúc trước; bởi lẽ có một số bằng chứng chỉ ra rằng chính giáo hội là những người đứng sau giật giây chiếm đóng thuộc địa Ấn Độ của Anh diễn ra vào năm 1858, sau khi cuộc "Binh biến lính Ấn" bị đàn áp. Động cơ đằng sau của vụ việc này có thể là vì giáo hội muốn tìm kiếm những cuốn kinh cổ nào đó trong hệ thống tu viện phức tạp nơi đây, và bóng dáng của tổ chức cũng đã được nhìn thấy đâu đó ở tu viện Sringeri, Sarnath và Rumtek. 

Từ những gì mà tôi đã từng đọc được từ các tư liệu tại thư viện Cambridge, có vẻ như giáo hội này tôn thờ một Vị Thần có tên là Usmuhu'N'lahyii—với hình dáng đậm chất ma quỷ của một con quái vật với bốn cái đầu dê, được tô điểm bởi mười cặp mắt trắng dã và hàng chục chiếc lưỡi rắn dài tới bốn-năm inch luôn thè ra từ những cái miệng rộng đến mang tai, có thân người nhưng mọc đầy lông đen gớm ghiếc và có chi là những cái xúc tu cứng nặng trịch như đá tảng. 

Như những thành viên của N'lahyii đã nói trong những buổi truyền giáo, 'Usmuhu'N'lahyii với hình dạng gớm ghiếc và ghê tởm, nhưng Ngài không phải là bề tôi của Quỷ Satan, mà Ngài là một Vị Thần hoàn toàn của vũ trụ, cao thượng hơn, phi phàm hơn, vượt trên cả Đức Chúa Trời Yahweh!

Ngài nắm giữ những quyền năng và dạng thức thực sự vượt ra khỏi vũ trụ phàm tục này; và con người e sợ sự hiện diện của Ngài, bởi Ngài nắm trong tay những điều mà ta chỉ có thể mơ tưởng nhưng không dám làm và cũng không làm được! Ngài là Đấng Tri Thức, là Absus ngủ say tại Raahu, và là một với Ar'absus Yahwkabath!

Thờ cúng Ngài, và chúng ta sẽ đạt được những điều không biết và được phép bước vào miền không tưởng sau cái chết! Tôn thờ Ngài, và chúng ta sẽ làm chủ tể của thế giới này. Để rồi tại vùng đất vĩnh hằng, chúng ta là một phần của Ngài và chìm đắm trong sự bất tử toàn năng!'

—Tim tôi đã chậm một nhịp khi nhớ tới những điều này.

Absus ư? Và Ar'absus?—Chẳng phải chúng có nghĩa tương đương với 'Thần' và 'Chân Thần' trong tiếng Ulqthe sao? Hình dạng ghê tởm? Những quyền năng và dạng thức thực sự vượt qua khỏi vũ trụ phàm tục này? 

Đây chẳng phải là những gì mà tôi đã viết hay sao? Tôi thề rằng là mình đã viết ra bài luận ấy với những kiến thức đã tham khảo và được suy nghĩ kỹ càng, nhưng mặc nhiên không bao gồm chút ấn tượng nào về việc tôi đã tham khảo từ 'Bí Truyền N'lahyii'! 

Và khoan đã. Những ký ức ấy đến từ đâu? Từ bao giờ mà tôi đã tìm đọc những thông tin về Giáo Hội Bí Truyền N'lahyii vậy?

Những dòng suy nghĩ ấy cứ thế hỗn độn và tràn ngập không ngừng, những câu hỏi chưa thể giải đáp được nay vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời, và lại còn tiếp tục kéo thêm vô số những câu hỏi khác nữa. Nhưng sau một lúc choáng váng và đã lấy lại được phần nào bình tĩnh, tôi ít nhất có thể tin rằng giáo sư Wenger thực sự có điều gì đó bất thường, đó là một tín hiệu cực kỳ tồi tệ. Tôi tin vào các dấu hiệu, và dù cho những lời thì thầm hay là những ký ức không xác định này có mang một mục đích xấu xa hay là gì đi chăng nữa, thì chúng vẫn đã cho tôi hai sự lựa chọn. Tin hoặc không tin. Lẽ dĩ nhiên hiện ra sau những phân tích và loại bỏ đơn giản, chỉ có cái trước mới là con đường duy nhất mà tôi vẫn có thể chủ động bước đi.

Tôi đã sai lầm khi tìm gặp Thầy Wenger. Với dấu ấn của ‘N'lahyii’, ông hẳn phải biết trước về những điều mà tôi đã trình bày, nhưng ông đã không nói gì ngay lúc đó, không gì cả! Giờ thì ông ấy đã đi tới Oxford, phải chăng là ông ấy thực sự đang đi gặp những giáo đồ khác? Và phải chăng họ sẽ sớm tìm bắt lấy tôi? Hoặc biến tôi thành một phần của chúng? Điều gì đang chờ đợi tôi phía trước đây? Có quá nhiều câu hỏi—Đêm đen lạnh buốt, tuyết rơi, không có trăng. Và tôi ôm đầu ngủ gục—

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận