Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Chu Kỳ Shur'san'gal o'Ernlwgth

Kẻ Trốn Chạy Khỏi Cái Chết [IV]

0 Bình luận - Độ dài: 4,594 từ - Cập nhật:

Khoảng tám giờ tối đó, tôi và Hohenjun tụ họp lại tại dưới chân Tháp Carfax. 

"Chúng ta gặp may đấy Chris! Tối nay lũ người của giáo hội sẽ tổ chức cuộc họp cuối cùng để giải quyết về trường hợp của anh, bọn chúng sẽ tập trung hết ở Thánh Đường ẩn phía dưới chân Vườn Bách Thảo Botanic. Là thời cơ của chúng ta dấy."— Hohenjun đã lên tiếng trước tiên, với một vẻ hưng phấn hiện rõ trên khuôn mặt.

“Vậy là chúng ta có thể giải quyết dứt điểm chuyện này. Anh đã có bản đồ chi tiết về Thánh Đường của chúng rồi chứ, Hohenjun?”

Đáp lại câu hỏi của tôi, Hohenjun chỉ nhẹ nhàng móc từ trong túi áo ra một tấm da dê với những đường vẽ chi tiết rồi đưa nó cho tôi. Nụ cười hiện trên khuôn mặt anh, như thể anh đang rất tự hào về thành quả của mình. Đó là bản phác thảo đầu tiên của Vườn Bách Thảo từ những năm đầu của Thế Kỷ XVII, với những đường hầm và các công trình phức tạp ẩn phía dưới như một mê trận khổng lồ đã được chú thích đầy đủ và cực kỳ chi tiết, rõ ràng là đã được Hohenjun tô vẽ lại. Tôi thực không biết anh ấy lấy nó từ đâu hay bằng cách nào mà anh ấy có thể hoàn thiện phần chú thích thêm chỉ trong một thời gian ngắn như vậy—khi mà điều ấy có nghĩa là bạn tôi đã phải lẻn vào phía bên trong những tầng hầm và tra xét từng con đường một—phải thú thật là tài năng và năng suất của anh ấy thực sự rất kinh khủng.

Ngay sau đó, tôi cũng đã bàn giao lại cho Hohenjun hai chiếc túi rượu đeo hông có chứa đựng hai mươi lít máu thông qua một ma thuật không gian chứa đựng nho nhỏ. 

Không chậm trễ, chúng tôi quyết định sẽ bỏ qua bữa tối và ngay lập tức lên đường tới Vườn Botanic. Giữa chuyến đi, bạn tôi đã nói cho tôi biết rằng anh ấy đã chạm mặt một vài thành viên của Giáo Hội trong lúc thám thính, và đã moi ra ít nhiều thông tin hữu ích từ chúng, mà chính phần bản đồ kia cũng đã được bọn chúng giúp đỡ hoàn thiện phần lớn. Anh cho biết thêm, việc tôi có thể chìm sâu vào trong Cõi Thực một cách tự nhiên thông qua các giấc ngủ thay vì phải sử dụng đến những Bí Thuật cực đoan và vô cùng khắt khe chỉ để tiềm hành ở đó trong một thời gian ngắn đã khiến những người trong giáo hội nảy sinh một mối quan tâm đặc biệt. Phần lớn mọi người trong giáo muốn bắt tôi về và dùng tôi như một con chuột bạch để thí nghiệm về khả năng phi thường ấy, và các Trưởng Lão đã nảy sinh một số tranh cãi lớn chỉ để quyết định xem ai sẽ phụ trách khâu thí nghiệm này—đó là lí do mà cuộc thảo luận đã diễn ra dài hơn dự tính, khiến cho hai-ba ngày qua ở Cambridge của tôi vẫn trôi qua một cách yên bình. Tôi có thắc mắc rằng tại sao họ không bắt tôi về trước rồi mới tiến hành cuộc tranh giành—dù sao khi ấy tôi vẫn còn có khả năng để chạy trốn nếu chẳng may nhận ra được sự bất thường, và những người như Giáo Sư Wenger thì hẳn sẽ không bất cẩn đến như thế. Đối với điều này, Hohenjun đã đưa ra lời giải đáp là:

“Bởi họ còn bận phải xác thực thêm một điều nữa, một khái niệm mà anh đã giới thiệu rất vắn tắt trong bài luận nhưng lại vô cùng quan trọng. Chính là Phân Kỳ Sự Tượng.”

“Chính là cái mà tôi đã viết trong bản thảo đầu tiên ư?”

—Phải rồi, đó là một trong những phần mà tôi đã lược bỏ đi sau khi suy nghĩ thật kỹ xem có nên đưa vào nội dung của phiên bản cuối cùng hay không. Nó là một khái niệm đã được tôi dùng để chỉ tới những hệ thống thế giới khác biệt hoàn toàn so với vũ trụ vật lý của chúng ta, những nơi mà tôi đã có dịp được đặt chân thoáng qua trong những giấc mơ nhưng không thuộc về những địa điểm nằm trong Cõi Ảo—như những gì mà tâm trí tôi đã mách bảo. Ở những thực tại này, đôi khi việc không cần thiết phải tuân theo các quy luật vật lý và những logic thông thường như của chúng ta đã khiến cho những dấu vết từ các Vị Thần đã để lộ rõ ràng hơn. Tuy nhiên, vì không có khả năng kiểm chứng từ những nguồn khác và cũng không có đủ nhiều những trải nghiệm để rút ra các thông tin cụ thể và kết luận phù hợp, vậy nên tôi đã loại bỏ nó ra, ý định để dành nó cho một nghiên cứu lâu dài khác về Hệ Thống Thế Giới Quan mà tôi sẽ thực hiện trong tương lai. Mặc dù thế, khi đưa bài luận cho Giáo Sư Wenger đọc qua, tôi vẫn nộp thêm bản thảo đầu tiên này với những phân đoạn đã bị lược bỏ đã được chú thích. Một phần vì để cho giáo sư hiểu được thêm về mạch suy nghĩ của tôi, một phần khác là để gợi mở ra những cuộc thảo luận khác xoay quanh chúng; như vì cuộc trò chuyện hôm ấy của chúng tôi đã giành ra phần lớn thời gian để nói về Những Giấc Mơ, thế nên tôi đã không có cơ hội để đề cập về chúng.

“Chính thế. Trong số những Giáo Hội Bí Truyền Cổ Lão mà tôi biết, truy tìm những nền văn minh ngoài hành tinh và xác thực về đa vũ trụ mở rộng là hai trong số những vấn đề được đặt lên hàng đầu, chỉ đứng sau việc truy nguyên và thờ phụng các Chủ Thần của giáo phái; do đó khái niệm mà anh đề cập cũng đã nhận lấy một sự quan tâm không kém cạnh gì khả năng du hành trong Cõi Thực ấy. Trên thực tế, đối với Bí Truyền N’lahyii hay cả Bí Truyền Usmuhu—giáo phái mẹ của chúng, vấn đề về thế giới khác đã tạm thời bị bỏ dở hàng trăm năm do không có tiến triển hay manh mối nào để tiếp tục nữa từ những xa xưa trước kia. Nhưng điều mà anh đã viết ra trong luận văn đó, trước tiên đã khiến cho nhóm Thủ Thư—những người canh giữ các cổ tịch của Giáo Hội—buộc phải lật tìm những tài liệu từ các thế hệ đi trước để đem ra đối chiếu, xác thực, cũng như mở ra các phiên họp để xem xét và bổ sung nó vào tàng thư của chúng; và thêm vào đó là trong quá trình này thì họ vẫn còn phải không ngừng liên tục liên lạc với những người của Bí Truyền Usmuhu từ tận Israel.”

“Ra là vậy. Không ngờ rằng việc này té ra lại cho chúng ta thêm một thời gian.” Tôi cười trừ.

“Ừm. Thực ra thì bọn chúng đã sớm có nhiều cơ hội để tiếp cận thêm vào những thông tin này đấy, kể từ khi chúng sở hữu thứ này.”—Hohenjun nói, rồi chỉ vào cuốn Amantura bie’Ithgwr trên tay—“Trong này cũng có ghi chép đề cập đến Phân Kỳ Sự Tượng, và rõ ràng là nó chi tiết và cụ thể hơn so với cái của anh rất nhiều.”

“Vậy tại sao họ lại không biết?”

“Bởi không đọc được. Hiển nhiên mà, phải không? Với một cuốn tà thư viết về những bí ẩn kinh tởm và nguy hiểm nhất trần đời, đâu phải cứ muốn là đọc, cứ muốn là hiểu được?”

Cũng hợp lý—“Thế là chỉ có những người được chọn, với thiên phú, hoặc nói đúng ra là có khả năng chịu tải và cộng hưởng đủ lớn với những cấm kỵ đó thì mới có thể nhìn vào những gì được viết trong cuốn sách, đúng không?”

“Hoàn toàn đúng, anh lí giải nhanh lắm, Chris. Cái đó chúng ta gọi là Tương Quan Thần Bí—một thước đo biểu diễn cho độ phù hợp của một đối tượng đối với ‘những điều chưa biết, không biết và không thể biết’. Giá trị tương quan càng cao thì sẽ đọc được càng nhiều, tiếp cận được càng lớn. Hầu hết các Tà Thư tồn tại trên thế giới đều sử dụng nguyên tắc này, cũng vì vậy mà rất dễ để phân rõ cuốn nào là nguy hiểm hơn, quyền năng hơn. Với những Người Ngủ Mơ như tôi và anh thì thuộc loại dị biệt, phần lớn có thể dễ dàng tiếp cận với mọi tri thức cấm trên đời bởi mức giá trị của chúng ta thậm chí nằm ngoài thang đo tiêu chuẩn mà các cổ nhân đã đặt ra, nhưng cho dù thế thì ‘điểm’ của chúng ta cũng có một giới hạn cụ thể. Như phần tôi, tôi chỉ có thể đọc qua chưa tới hai phần nghìn của cuốn Amantura—dễ thấy được rằng nó kinh khủng đến nhường nào. Và tôi cũng không tài nào có thể tưởng tượng được tác giả của cuốn sách này đã đạt tới một cái vĩ độ không tưởng như thế nào nữa.”

“—Ồ đây rồi, đây chính là lối vào mà chúng ta đang tìm.” Hohenjun nói, cưỡng ép đóng lại đề tài nói chuyện của chúng tôi.

Tôi và anh ấy hiện đang đứng ở trước sông Cherwell—một khoảng sát ngay phía dưới của cây cầu Magdalen. Có xe cộ và lẻ tẻ một số người đi qua trên đường, nhưng những cái cây cao đã che khuất những hình bóng lướt qua khỏi tầm mắt của chúng tôi; và ngược lại, cũng che dấu thân ảnh của chúng tôi khỏi bọn họ.

Đối diện với chúng tôi ở bờ bên kia là một mạn bên của Vườn Bách Thảo—Khu Vực Glasshouses. Vườn Botanic luôn mở cửa vào lúc mười giờ sáng và đóng cổng khi đồng hồ điểm đến mười bảy giờ chiều, vậy nên phía bên trong khu vườn giờ đây chỉ còn lại các nhân viên an ninh túc trực cùng thêm một vài lực lượng tuần tra khác. Tôi đã nghĩ rằng Hohenjun sẽ bảo tôi ‘lội sông’ và ‘vượt rào’ để đi vào phía bên trong khi mà chỗ đứng của chúng tôi hiện tại thực rất phù hợp cho những hành động lén lút như thế. Tuy nhiên, anh ấy đã không làm như vậy.

Hohenjun nhìn về các bức tường ở phía xa, tầm mắt chiếu thẳng đến một góc nơi Nhà Kính Tập Thể nằm ở bên trong, sát liền kề là Khu Vực nuôi trồng các loài thực vật có nguồn gốc từ Nam Phi và Nam Mỹ. Đôi mắt của anh vẫn nhìn chăm chú, nhưng cơ thể anh bắt đầu lùi lại từ từ về phía sau để có thể nhìn lấy toàn cảnh trước mắt. Hai tay của anh giơ lên như đang đo đạc điều gì đó, bước từng bước nhỏ để điều chỉnh chính xác vị trí của mình. Rồi anh tiến lên, dịch qua phải, lẩm bẩm từng bước một.

Bấy giờ thì tôi hiểu ra rằng Hohenjun đang mày mò tọa độ của một lối đi bí mật nằm đâu đó quanh đây. Tôi vội giở ra bản phác thảo sơ đồ khu vườn và nhìn theo. Hẳn Hohenjun đã sử dụng căn Nhà Kính nằm ở góc làm quy chiếu trực tiếp...anh ấy tiến về bên phải...đúng rồi, có một đường hầm đánh dấu đỏ ở đấy, với một đường chạy dài từ vòng ngoài của khu vườn tới thẳng bên trong Walled Gardens. Ở khúc này, đường hầm bắt đầu phân ra thành nhiều nhánh, vòng qua khắp khu vực lớn nhỏ và cuối cùng đổ dồn hết về trung tâm của khu vườn, nơi nằm phía dưới Đài Phun Nước. Cùng với đó, từ phía Tây Nam của Vườn Botanic, tôi cũng có thấy một đường hầm với thiết kế tương tự chạy khắp Lower Garden, cuối cùng hợp lại với cái phía bên chúng tôi.

Dựa trên các nét nhỏ và nhạt hơn đã được Hohenjun chú thích một cách tinh vi, có thể thấy đây là phần đường nằm dưới chót nhất trong các lớp cấu trúc. Cộng thêm với việc phân phối các con đường tới khắp mọi ngóc ngách, nối liền với các điểm tập trung lớn phía trên—tôi đoán rằng đây là một đường vận chuyển vật tư, với đầu vào là nơi nằm phía Tây Nam và đi ra ở mạn trên hướng Đông của chúng tôi. Rất phù hợp cho một cuộc đột nhập. Nếu đêm nay tất cả các tín đồ trong giáo phái đều tập trung ở Trung Tâm của Thánh Đường—nơi rất có thể là căn phòng nằm phía dưới Đài Phun Nước—vậy khi mọi giáo đồ đổ dồn về đó từ khắp mọi đường hầm khác, đây sẽ là nơi duy nhất trở nên vắng tanh hoàn toàn ngay trước khi buổi họp diễn ra.

Tôi tập trung hơn về phần lối ra trước mặt, nơi Hohenjun vẫn đang xác định vị trí. Nó nằm ở phía dưới đáy của con sông, vị trí chiếu thẳng tới gần với tường bên phải của Nhà Kính Trồng Các Cây Vùng Cao. Lối đi rất hẹp, đúng như tôi dự đoán.

Bản thân khu vườn Botanic không phải là một khu vực quá rộng đủ để chứa chấp một Thánh Đường lớn với hơn một ngàn nhân khẩu, cùng những đường lối phức tạp và các trụ sở nhỏ hơn trải ra chằng chịt phía dưới. Và như những gì mà bản phác thảo cho thấy, các lớp cấu trúc này cũng chỉ phân bố trong bốn tầng chồng lên nhau—quá ít. Vậy nên kết luận khả thi nhất để phù hợp với tất cả những điều này chính là Giáo Hội N’lahyii đã sử dụng một Tà Thuật giúp mở rộng phần ‘không gian’ bên trong Thánh Đường, tương tự như Bí Thuật mà tôi đã sử dụng với cái túi chứa rượu, chỉ là nó nằm ở một quy mô lớn hơn vô cùng mà thôi. Có lẽ bên trong này còn rộng hơn cả Cung Điện Westminster cũng khó nói.

Đã nắm bắt được những thông tin cần thiết, tôi nhìn qua anh bạn của mình—người giờ đây đang bận bịu lục tung chiếc cặp xách nhỏ của mình để lấy ra các chai thuốc và ống nghiệm cất chứa những dung dịch với hỗn hợp màu phát sáng rất đỗi kỳ lạ. Được một lúc, Hohenjun bắt đầu trộn lẫn các hỗn hợp với nhau, cân đo cẩn thận. Khuôn mặt của anh ấy ánh lên vẻ hưng phấn cực kỳ.

“Anh đang làm gì vậy?” Tôi tiến lại gần, hỏi.

“Tạo ra thứ dung dịch sẽ giúp chúng ta thuận lợi vượt qua mọi hàng rào an ninh đã được thiết kế trong đó. Mặc dù chúng ta rất có thể sẽ không cần phải chạm trán với lũ tín đồ, nhưng kể cả thế thì với một Bí Truyền Cổ Lão mạnh mẽ như N’lahyii, chúng vẫn luôn có hàng tá phương thức để bảo vệ, chống kẻ đột nhập và tiêu diệt các mục tiêu tiếp cận trái phép.” Hohenjun trả lời, đôi mắt vẫn không rời khỏi những chiếc lọ.

“Có một thứ dung dịch ghê gớm như vậy tồn tại trên đời sao?” Tôi ngạc nhiên.

“Phải, có rất nhiều là đằng khác. Tuy nhiên, hầu hết chúng không thể tìm thấy được ở Trái Đất. Sở dĩ tôi có được, là vì tôi đã lấy nó ra thông qua những giấc mộng. Mộng thì thực hơn cả Hiện Thực, Chris ạ. Mà anh đã được cấp những đặc quyền để tiếp cận tới nó, thì hiển nhiên anh cũng có thể làm ra một số thao tác. ‘Bí Thuật’ không phải là sức mạnh duy nhất của chúng ta đâu.”

Đến đoạn này, Hohenjun đứng dậy, cầm lấy ba ống nghiệm trên tay và lắc nhẹ—“Thứ này là Hiện Trưng Dịch Lỏng Zalphon, hoặc như cách mà những Nhà Giả Kim gọi, đây là Alkahest—Dung Môi của Vũ Trụ.

Bây giờ, chúng ta sẽ dùng hai lọ để thoa chúng lên quần áo, thế là tôi và anh sẽ tạm thời nhận được một vầng bảo hộ khỏi mọi thứ xấu xa trên đời này, giúp ta vượt qua khỏi mọi loại ma thuật hay các tác động tiêu cực tiếp cận đến. Và một chút nữa, khi hai ta lặn xuống sông, tôi sẽ phụ trách việc tìm ra cái cổng; và trong khi tôi dùng đèn pin soi sáng giúp anh, anh sẽ có nhiệm vụ dùng lọ cuối cùng để bôi nó lên đó—chất dung môi sẽ giúp chúng ta hòa tan cánh cổng ra, bất kể nó có được làm từ hợp kim cứng chắc hay được bọc bởi một lớp màng ma thuật nào đi chăng nữa. Hiểu chứ?” —Nói rồi, anh đưa cho tôi hai ống, ra hiệu tôi làm theo hướng dẫn của anh.

Chúng tôi cởi chiếc áo vest khoác ngoài ra, tháo bỏ giày, tất và xắn ống tay áo sơ mi cùng chiếc quần âu lên cao. Hohenjun sau đó tháo nắp ống nghiệm, lần lượt đổ đều những lượng nhỏ lên trên hai lòng bàn tay, mu bàn chân và thêm một phần nữa thoa lên giữa trán—tôi làm theo anh. Ngay lập tức, tôi cảm giác được chất lỏng đặc sệt màu đỏ tươi xen lẫn những ánh hoàng kim lấp lánh lan tỏa ra khắp khuôn mặt, tứ chi, và cuối cùng bao bọc cả thân thể của chúng tôi—rồi chúng nhanh chóng loãng ra, phai nhạt dần, và sau đó biến mất không còn một dấu vết.

Thoạt nhìn không có một sự thay đổi gì, nhưng tôi có thể tinh tế cảm thụ được cả cơ thể dường như có một màng mỏng vô hình nào đó bọc lên, chầm chậm vận động như những làn sóng nhỏ vờn quanh cơ thể. Và tầm mắt của tôi giờ đây dần dần được lấp đầy bởi những màu sắc rực rỡ, tôi thấy sắc sáng bao phủ cả bản thân lẫn Hohenjun, rung động và sôi sùng sục. Trước mặt, khu vườn Botanic cũng lan tỏa những màu sắc tương tự, rộng lớn, dày đặc. Không, là phía dưới khu vườn đang lan tỏa chúng. Đó là những màu sắc đại biểu cho sự hiện diện của thần bí. Thứ dung dịch này thật tuyệt vời.

“Sẵn sàng rồi chứ?”

“Sẵn sàng.”

Sau cuộc trao đổi ngắn, chúng tôi đồng thời nhảy xuống nước. Hohenjun lặn phía trước, còn tôi ở ngay sau. Lạnh buốt—nhưng may mắn là nó chỉ vừa đủ rét vừa đủ để mặt nước không có những dấu hiệu kết băng lại.

Mực nước của sông Cherwell vốn không quá sâu, chỉ trung bình khoảng độ chín feet, có những nơi còn thấp tới sáu đến bảy feet hơn; mà điều này hóa ra lại có lợi đối với chúng tôi. Tuy nhiên hiện giờ đang là đêm tối, xung quanh lại không có ánh đèn nào có thể chiếu tới, và cái đèn pin của Hohenjun thì chỉ soi sáng vừa đủ để bọn tôi có thể miễn cưỡng xác định một khoảng không gian rất hạn chế xung quanh; vậy nên công cuộc lặn xuống của chúng tôi vẫn còn phải diễn ra hết sức chậm rãi.

Hai phút. Chưa thấy gì cả.

Ba phút. Vẫn chưa được. Dưỡng khí của tôi sắp cạn rồi.

Bốn phút. Tôi không kìm được mà ngoi lên khỏi mặt nước, thở hồng hộc, miệng và mũi không ngừng tham lam hút lấy những luồng khí mát lạnh. Rét quá.

Công đoạn này khó khăn hơn tôi nghĩ nhiều. Có một lượng lớn các loại rác thải bám cặn dưới đáy sông, mặt nước thì đục, và những đám rêu xanh tua rua rất gây cản trợ cho tầm nhìn lẫn khả năng di chuyển của chúng tôi.

Hohenjun vẫn còn ở phía dưới. Vừa lúc nãy ra hiệu xin phép được lên trước, tôi thấy anh gật đầu với tôi bằng một khuôn mặt không đổi sắc, và sau đó vẫn tiếp tục miệt mài lấy tay vơi đi từng cọng rêu, hất ra những mảnh đất nhỏ như thể bốn phút vừa qua chỉ là bốn mươi giây. Anh ấy quả là rất thành thục đối với những chuyện như thế này—một con người nghị lực, mà cũng thật rắn rỏi ghê gớm, đúng như những gì mà tôi đã cảm nhận được ở anh ngay từ đầu.

Nhưng tạm bỏ qua những suy nghĩ vẩn vơ trong đầu, tôi tập trung hít một hơi thật sâu rồi lần nữa lặn xuống phía dưới, nhìn theo phía nguồn sáng le lói mà tìm đến chỗ của Hohenjun. Anh ấy vẫy gọi tôi lại.

Tìm được rồi—Ánh mắt của anh nói như thế. Tôi nhanh chóng tiến lại gần, thấy được rằng phía trước nơi Hohenjun đang quỳ, có một cái cổng bằng sắt hình tròn đang đính chặt dưới nền đất.

Và như đã thống nhất từ trước, tôi từ từ mở nắp ống nghiệm đã cầm sẵn trên tay, chầm chậm ghé miệng ống lại gần cánh cổng và để dung dịch thấm vào nó trực tiếp. Giống như quy tắc mà Hohenjun đã nói qua, tôi thấm chất lỏng thành từng điểm và nối chúng lại thành một hình ngôi sao—năm cánh, năm bộ phận. Tức thì, dịch lỏng màu đỏ với ánh vàng lần nữa tràn ra từ năm điểm đó, trong chốc lát bao phủ cả cánh cổng hệt như những gì đã xảy ra với chúng tôi vài phút trước. Nhưng vì cánh cổng không phải là một thể sống, thế nên nguyên tắc ‘bảo hộ’ của Alkahest sẽ không áp dụng lên nó. Thay vào đó, vì nó là một hợp kim, thế nên thứ dịch này sẽ nhận định nó như một hợp chất mục tiêu cần phải hòa tan, và ăn mòn các liên kết phân tử bên trong đó rồi cuối cùng biến cánh cổng trở thành một bãi chất lỏng đồng tính.

Chính như tôi nghĩ, tiếng ‘xè xè’ vang lên sau đó cùng phần hợp kim đang tan rã với tốc độ có thể thấy bằng mắt thường, đệ lộ phía sau một hố dốc thẳng đứng tựa như vực sâu không đáy, miệng chỉ vừa đủ để cơ thể của một người trưởng thành lọt qua.

Hohenjun ra hiệu cho tôi, rồi anh ấy bắt đầu luồn người mình qua chiếc hố. Tôi theo sát phía sau anh.

Trong phút chốc, tôi cảm thấy cả không gian như bị đảo loạn. Dòng nước đột ngột biến mất khỏi cảm giác của tôi ngay khi tôi khuất bóng sau miệng hố. Cả người tôi như bị dốc ngược lại, đột ngột, rồi rơi tự do trong một khoảng không tối đen thăm thẳm. Nhưng một nháy mắt trôi qua, sự tăm tối ấy bất ngờ bị xâm chiếm mạnh mẽ bởi một luồng sáng trắng, khiến tôi choáng nặng vì sự thay đổi nhanh chóng.

Và cho đến khi lấy lại được tinh thần, tôi nhận thấy bản thân đang ngồi bệt xuống nền đá, vẻ hốt hoảng. Hohenjun đang đứng phía trước, cúi xuống nhìn tôi với một nụ cười:

“Đừng có cười!”

“Tôi đâu hề có ý mỉa mai. Chẳng qua là nhìn biểu cảm của anh trông có vẻ…nhăn nhó quá mức? Nói chung là tôi không kiềm được.” Anh ấy đáp.

Mặc cho có chút khó chịu vì dáng vẻ xấu hổ vừa rồi, nhưng tôi quyết định không so đo với Hohenjun nữa. Tôi đứng dậy, nhìn quanh lối đi.

“Nơi này còn lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi.”—Phải. Đường đi rộng khoảng ba mươi lăm feet và trần cao tới hai mươi bảy-hai mươi tám feet, thậm chí còn thoáng gấp đôi gấp ba cả những đường chính đi vào một số Thành Đường Công Giáo lớn nhất. Bốn bức tường được lát bằng đá Balsatl đen, và cứ cách khoảng sáu feet là lại có hai chiếc đèn tường đốt lửa bằng dầu chiếu sáng hai bên.

Những hoa văn được in trên những chiếc giá đèn bằng đồng đã ngay lập tức thu hút ánh nhìn của tôi. Đó là một sự ác cảm mà tôi vẫn thường thấy, nhưng bắn ra đầy mãnh liệt hơn, gần ngay trước mắt và có thể chạm vào được. Chứ không giống như những ấn tượng chỉ có trong mơ ấy. Chúng là một tập thể những hình khối nhỏ cực kỳ lập thể, được chạm khắc chằng chịt xung quanh phần giá đèn, với mật độ càng tăng cao hơn khi tiến lên miệng giá; mô tả bằng nhiều góc độ phức tạp về các hình vẽ đầu dê với miệng ngậm đầy rẫy những con rắn tỏa ra tua rua. Điều đặc biệt ở chỗ độ quái dị và kỳ lạ trong cách tạo dựng mô hình hay khắc họa chi tiết của chúng hoàn toàn tách biệt với mọi loại hình nghệ thuật điêu khắc mà lịch sử con người đã ghi nhận một cách phổ biến. Chắc chắn không thuộc về thời đại này, và chắc chắn cũng không thuộc về niên đại của hàng ngàn năm trước trở lại.

Các khối hình vẽ được sắp xếp lộn xộn, không có thứ tự, và thô kệch. Nhưng bằng một cách nào đó mà những hình thù chen chúc như lẫn vào nhau ấy vẫn tỏa ra một cảm giác rất có chủ đích, với góc cạnh tinh xảo như đã được cân đo đong đếm kỹ càng từ trước. Và hơn hết, nhờ vào tác dụng của dung dịch Alkahest mà đôi mắt của tôi còn có thể thấy được một màu sắc hắc ám nồng đậm phủ quanh nó, và tràn lan khắp cả không gian ngay cạnh, thể nó đang chực chờ để nuốt trọn những con mồi xấu số.

“Những biểu tượng cách điệu của Trí Thần Usmuhu’N’lahyii—chúng chính là thứ chịu trách nghiệm cho việc chứa đựng và vận chuyển các tà thuật đã được khắc vào. May mắn là chúng ta đã được bảo vệ bởi dung môi, bằng không thì nhìn vào nồng độ của những sắc đen này…có lẽ cả hai ta sẽ bị biến thành một đống thịt nhão ngay khi bước vào mất.” Hohenjun lên tiếng.

Đoạn, anh đưa tay chạm vào vai tôi, rồi nói tiếp: “Đi nào, Chris. Chỉ còn khoảng hai mươi phút nữa là đến giờ cử hành buổi họp. Nhìn qua hành lang rộng lớn này, ta cần phải chạy nước rút một lúc đấy.”—

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận