• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Đại Kim bên bờ diệt vong

Chương 16: Triết Biệt trở về

0 Bình luận - Độ dài: 3,065 từ - Cập nhật:

Những lời đồn đại về Quỳ Dạ Ngao quả không sai. Từ phía trong ông chủ họ Quỳ tỏa ra một nguồn nội lực mà một người phàm luyện công cả đời còn khó có thể tưởng tượng ra, chứ chưa nói đến chuyện luyện thành. Chưa cần phải cầm vũ khí lên, Thừa Lân đã biết sự khác biệt giữa hai người là quá xa. Thậm chí cho cậu mặc thiết giáp, mọc thêm hai tay, sử dụng thần khí đối đầu với Dạ Ngao dùng tay chiêu cũng chẳng thắng nổi.

Dạ Ngao cất tiếng nói, giọng hào sảng nhưng đầy nội lực, “Chào mừng các vị đến với hang động Quỳ Trang. Ta đã sai mấy đứa nhỏ đun nước cho các vị tắm rồi. Giờ các vị vào phòng của ta ghi danh, để ta biết rõ các vị là người phương nào, cũng như thuận tiện sau này chia đồ ăn thức uống theo khẩu phần.”

“Trong hang động mà cũng phân được phòng sao?” Thừa Lân nghĩ trong đầu nhưng không nói ra. Nhưng đi dần vào trong, cậu mới nhận ra rằng càng đi vào, hang động càng mở rộng ra. Ở phía trong ánh sáng không thể vào, nên trên vách động bốn bề đều thắp đuốc sáng quắc, từ dưới nhìn lên trần, từ trái nhìn sang phải đều cao vài trượng. Bên vách động có những gian lợp bằng tranh và gỗ, ngăn cách những chiếc phản kê gần nhau, tựa hồ như những gian phòng để mọi người ngủ nghỉ. Trong cùng hang động là một vách ngăn che kín phía trong, có cửa mở ra vào, khi bước vào thì không gian thoáng đãng, có các loại nhạc cụ đặt một góc, góc kia một kệ sách, góc nữa lại đôi ba người gỗ, nhiều thứ đồ như vậy mà cũng không khiến căn phòng chật chội. Đây hẳn là gian riêng của Quỳ Dạ Ngao.

Giữa phòng có một chiếc ghế tràng kỷ làm từ tuyết mộc, trạm khắc hình rồng nằm hổ ngồi vô cùng tinh hoa. Chiếc ghế đó nặng phải tới vài trăm cân, nếu không phải họ Quỳ nhớ dăm ba người cùng khênh lên núi thì dễ thường ông chủ này có sở thích trạm khắc khi nhàn hạ.

Quỳ Dạ Ngao ngồi xuống, chong đèn dầu lên, lật một quyển sổ ra rồi hỏi danh tính đầy đủ các vị mới đến.

Xong xuôi, ông chủ Quỳ mời mọi người ra ngoài nghỉ ngơi, chỉ giữ lại Ô Di Hà và Hoàn Thừa Lân. “Hai người có lẽ là thủ lĩnh của nhóm người này?”

Ô Di Hà đáp, “Tôi là thủ lĩnh đoàn người, còn đây là ngũ đệ của tôi.”

Dạ Ngao nhìn Thừa Lân rồi gật gù. “Cả hai người đều có tướng lãnh binh.”

“Ông chủ cứ quá lời,” Hà đáp. “Ông chủ uy vũ như thế này, sao không xuống núi cứu rỗi bá tánh một phen?”

“Ta cả đời chỉ tu luyện võ học, một chữ binh pháp bẻ đôi ta cũng không biết, liệu có thể giúp được bao phần? Chiến trường ăn thua ở bày binh bố trận, chứ một sức ta cũng không thể cản được vạn quân.”

Ô Di Hà vẫn muốn nói vài lời nữa để thuyết phục, nhưng Dạ Ngao chỉ đáp, “Nếu vị anh hùng này hay bất cứ vị anh hùng nào khác muốn rời hang động, chiến đấu vì tổ quốc, ta không hề cấm cản. Nhà của ta là ở đây, kẻ nào hung hăng tới ta sẽ đuổi đi, nhưng ta đã cho các vị nơi nương tựa, các vị đừng nhân tiện thuyết phục ta rời đi, thật không hay chút nào đâu.”

Ô Di Hà không nói gì nữa. Quỳ Dạ Ngao phổ biến nội quy hang động. Đơn giản mỗi người trong hang ngày nào còn ở đây thì sẽ tham gia vào sinh hoạt chung, săn bắn, hái lượm, chăn dắt, nuôi trồng ngũ cốc. Nếu còn ở lại động thì không xuống núi, còn nếu xuống núi thì theo đường phía Tây đi xuống, không để lộ tung tích động cho lũ giặc ngoài kia.

Khi hai người chuẩn bị rời đi, Hoàn Thừa Lân mới hỏi, “Ông chủ không biết có nghe ngóng được thông tin gì về Lãnh binh châu đốc Hoàn Thừa Ngạn và gia quyến không?”

Dạ Ngao đáp, “Ta chưa nghe nói, nhưng những người ở đây có thể trả lời cho cậu. Hoàn đại tướng với cậu quan hệ như nào?”

“Người đó là cha tại hạ.”

“Thảo nào; thảo nào.” Dạ Ngao gật gù, rồi không nói gì nữa. Thừa Lân cũng không hiểu những lời vừa rồi của ông chủ là có ý gì.

Bọn Hà, Lân tắm rửa rồi tụ tập trong một vách ngăn trong sơn cốc. Họ ăn một bữa tối ngon lành, đầy đủ mà lâu lắm rồi vẫn chưa được ăn. Ô Di Đạo liên tục tấm tắc khen tài nghệ của Từ Túc Anh, nói rằng bàn tay kì diệu của nữ nhân như một liều thần dược khiến hắn khỏe ra năm, bảy phần. Kì thực thì y sĩ nào đã thức tỉnh nội công tầng thứ ba đều có thể trị thương như Từ nương, chỉ là họ Từ quá xinh đẹp nên Ô Di Đạo một phen nhiều lời. Nếu là nam nhân thì hắn đã không đếm xỉa, thậm chí có khi còn mắng chửi khi được dặn là trong vài ngày tới không được đụng tới rượu.

Bọn họ đang ăn tối thì nghe thấy tiếng nói chuyện từ vách ngăn đối diện. Bên đó có hai kẻ mặc thường phục, vừa nốc rượu vừa lèm bèm với nhau.

Kẻ thứ nhất nói, “Lúc thằng chó đẻ Hung Nô đó đụng vào vợ của ta, ngươi biết nó làm cái gì không? Nó xé toạc quần áo trên người thị ra! Ta chỉ hận lúc đó tay trói sau lưng, dao kề cổ, không thể làm gì, không ta đã băm vằm nó ra thành nghìn mảnh!”

Kẻ thứ hai đôi mắt long sòng sọc. “Giống dã thú! Bọn chúng giết chết con nhỏ của ta, xác con ta ta còn không được nhìn lần cuối! Bây giờ đây chỉ cần quan quân nước Kim đi qua đây, bọn họ mà muốn đánh thì ta cũng tình nguyện tham gia. Nếu không trả được thù này thì sống trên đời làm gì nữa!”

Kẻ thứ nhất nước mắt lưng tròng, ứa gan ứa ruột đáp, “Phải chi điều đó là sự thực. Nhà vua đâu có muốn đánh. Nếu không phải vì địch tới quân ta đã hèn nhát vứt cả đao kiếm bỏ chạy, thì đâu có tới nỗi thê thảm thế này?”

Kẻ thứ hai thở dài đườn đượt. “Cứ tưởng vua Kim mới lên ngôi sẽ khác. Nào ngờ chẳng khá hơn vua trước là bao. Không có ai dám đứng lên, nước sắp mất thật rồi.”

Cổ Mạnh Ninh nghe được mới nói nhỏ với cả bọn, “Có vẻ ở đây nhiều người còn quyết tâm kháng Mông lắm. Chi bằng chúng ta dành vài ngày tới mỗi người vài lời thống thiết, thuyết phục bọn họ gia nhập chúng ta, cùng xuống núi sống mái với Hung Nô một phen.”

“Vậy thì còn gì bằng!” Ô Di Đạo vỗ đùi bem bép.

Bữa tối xong xuôi, cả bọn ai nấy đều mệt nhoài, lăn ra ngủ. Hoàn Thừa Lân vừa lim dim ngủ, chợt thấy có ai khẽ lay vai của mình, mở mắt dậy thì mới thấy là Ô Di Hà.

Ô Di Hà nói, “Hoàn đệ, theo ta ra ngoài kia.”

Lân hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

Hà đáp, “Ta đã hứa sẽ giúp em trau dồi kiếm pháp, lời hứa đó ta không quên đâu.”

Hà dẫn Lân ra nơi vắng vẻ, rồi ngay lập tức bảo cậu chàng rút kiếm ra.

Hà mới nói, “Hoàn đệ. Khi chiến đấu với Trương Nhu, huynh thấy đệ có vận một chiêu của Hạc kiếm pháp. Giờ em hãy thử nó với ta đi.” Rồi cũng rút cây đao của mình ra.

Thừa Lân lại nhớ về chiêu Phiêu Tuyết Xuyên Vân, nhẩm thật kỹ trình tự xuất chiêu, rồi mới tung một nhát chém về phía Ô Di Hà. Nhưng cậu vừa mới vung kiếm thì Ô Di Hà đã sát lại gần, khuỷu tay thọc vào cổ tay cậu, tay kia suýt nữa tóm được cậu mà vật xuống đất. Nếu không vì Thừa Lân phản xạ kịp thời thì đã bị tóm gọn rồi.

Ô Di Hà lui lại rồi chậm rãi nói, “Thời gian ra chiêu của em chậm quá, nếu như khi đó không phải Trương Nhu đang đau đớn và phải quần ba chúng ta cùng một lúc, hắn đã có cơ hội gây tử thương cho em.”

“Quả thực có nhiều điều em phải ghi nhớ mới làm được,” Lân đáp.

“Không cần phải làm thế. Thuần thục là khi ta là chiêu mà chiêu là ta. Nếu như vẫn phải suy nghĩ thì vẫn là chưa làm chủ chiêu thức.” Ô Di Hà nói, “Thân rỗng thì khí mới chạy. Em nhất định phải để cho đầu óc trống rỗng, thông hanh, mới thổ nạp được nội công, ra chiêu mới thuần thục. Giờ em hãy bắt đầu lại từ cái cơ bản. Đừng cố gắng ghi nhớ, mà hãy cố gắng điều hòa nhịp thở.”

Thừa Lân chợt nhớ lại lúc mình khai mở nội công của mình lần đầu, cũng là lúc tâm của cậu tĩnh lặng nhất. Trong vài ngày qua chiến sự hỗn loạn, cậu bị cuốn theo nhịp độ của kẻ khác mà quên mất những điều tối cơ bản trong võ học.

“Ni Kham sư phụ đã dạy em thở thế nào, em hãy làm lại xem.”

Thừa Lân làm theo. Ô Di Hà chăm chú quan sát, mới nhận ra là dường như sư phụ cậu hoặc chưa quá coi trọng nhịp thở, hoặc không để ý đến một sai lầm trong việc điều hòa hô hấp của Thừa Lân.

“Hoàn đệ. Hãy thở ra bằng những nhịp nhanh, ngắn. Để dưỡng khí tích tụ được thẩm thấu vào trong kinh mạch, để chúng kịp hoán đổi với chướng khí trong cơ thể, như vậy mới có thể tuần hoàn.”

Thừa Lân mới vỡ ra. Cậu tập hít thở thêm chục lần. Dòng khí lạnh ngắt trong kinh mạch của chàng giờ chuyển nóng ấm, chạy dần từ đỉnh đầu xuống ngực, rồi xuống bụng. Chàng điều chúng đi vào những ngóc ngách khác nhau trên ngực mình, đã có thể được.

Ô Di Hà mới nói, “Giờ hãy biểu diễn lại chiêu thức vừa rồi cho ta xem.”

Thừa Lân thực hiện lại chiêu Phiêu Tuyết Xuyên Vân. Ô Di Hà lại bất ngờ đánh đến, nhưng lần này như thể kinh mạch trong cơ thể cậu tự điều hướng, đầu óc quang đãng, cơ thể tự ra chiêu như thể Phiêu Tuyết Xuyên Vân đã nằm trong tiềm thức. Ô Di Hà chưa kịp áp lại gần để tước vũ khí thì đã bị mũi kiếm đe dọa, phải nhảy ngược trở lại.

“Khá; khá lắm!” Ô Di Hà vỗ tay. “Đến khi em có thể tách nội khí của mình ra thành nhiều phần nhỏ, là em sẽ đạt tới cảnh giới của ta. Ngươi có thể vận một phần nội khí thành ngoại kình, như thế này này,” Nói rồi, Ô Di Hà đưa hai ngón tay ra phía trước, một chỉ chọc thẳng vào một thân cây bên cạnh. Màu sắc nâu trầm bắn ra từ đầu ngón tay Hà, bắn tróc cả vỏ cây, đục một lỗ sâu tầm hai phân lên đó, dù cho đầu ngón tay Hà còn chưa chạm vào bề mặt cây.

“Còn lên tầng thứ tư nữa thì sao?” Lân hỏi.

“Lên đó thì thực tình ta cũng chưa được biết. Ta cũng chưa quen ai đạt được nội công tầng thứ tư, nên cũng không mường tượng được cảm giác như thế nào. Ngày mai, chúng ta cùng đi hỏi ông chủ Quỳ một phen xem sao. Nhưng còn bây giờ thì ta và em cùng luyện tập. Ta thấy em có tư chất tốt, nhưng bắt buộc phải đột phá nhanh. Tình thế cấp bách rồi, phải là kẻ mạnh mới có thể bảo vệ bản thân và những người mình thân yêu.”

“Những lời anh dặn, em ghi nhớ kỹ, không dám quên đâu.”

Cả đêm hôm đó, Hoàn Thừa Lân luyện nhịp thở và kiếm thuật, chong đèn giở Hàn Cầm Kiếm Phổ ra cùng Ô Di Hà luyện kiếm pháp, tới tờ mờ sáng mới trở về động.

Cách Quỳ Trang sơn cốc năm trăm dặm, tại Cư Dung quan, Thông Châu, Vạn Lý Trường Thành…

***

“Triết Biệt trở về! Triết Biệt trở về!” Tiếng hô hoán của lính canh bên ngoài cổng quan kêu lên, ngay sau đó ngân vang tiếng tù và Mông Cổ từ phía xa xôi. Trời còn chưa chuyển sáng, nhưng ai nấy đều đã bật cả dậy, không kẻ nào có thể ngủ nổi nữa. Đuốc đốt lên sáng quắc, hỏa sắc bập bùng ngập tràn không trung.

Trong thành bát nháo vô cùng, dân đen qua người lại xô đẩy lẫn nhau, ra ngoài cất hết mọi tài vật vào trong nhà, chốc chốc lại nghe tiếng tri hô, lẫn cả vào nhau thành tạp nham không ra âm điệu gì. Không thể nhận ra hàng ngũ, kỷ cương của một quân đội chỉ năm ngày trước đã đẩy lùi một cuộc tiến công của nữ tướng Mông Cổ Hoa Tranh. Chỉ hai từ ‘Triết Biệt’ thôi đã đẩy bọn họ vào rối loạn cực hạn.

Vạn Lý Trường Thành là công trình đồ sộ được xây nên từ thời Tần Thủy Hoàng, trải dài một vạn cây số, đông tiếp giáp Bột Hải, tây kéo tận tới Tân Cương, suốt hàng trăm năm qua người Mông Cổ dù có vượt qua cũng bị đánh đuổi ngược trở lại. Sau khi chính Kim Thái Tổ phá Liêu lập quốc, ông đã cho trùng tu lại Vạn Lý Trường Thành để đề phòng tình cảnh tương tự xảy ra với mình, thành thử trường thành càng thêm thập phần vững chãi. Tuy tình cảnh ngặt nghèo và đã bị bao vây ba phía, Cư Dung quan vẫn là một trong số những thành trì đông quân nhất của nước Kim, với quân số lên tới tám vạn. Dù đã vượt qua vài tiểu quan của Vạn Lý Trường Thành, quân Mông Cổ vẫn cần chiếm được yếu điểm quan trọng này để có thể dễ dàng vận lương và tổ chức hậu cần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vị trí đắc địa này vài tháng nay đã không lấy được, cộng thêm việc tể tướng Kim triều đương thời là Truật Hổ Cao Kỳ đã huy động được quân đội đông đảo lên tới bốn mươi vạn người, sẵn sàng tiêu diệt toàn bộ quân Mông Cổ của Mộc Hoa Lê tại Dã Hồ Lĩnh.

Trong khi quân sĩ trong thành còn hỗn loạn, một tiếng cồng lớn vang lên trên bức tường thành. Một viên tướng lưng hùm vai gấu gầm lên một tiếng, thét lớn, “Tại sao các ngươi phải sợ? Thành quách chúng ta suốt cả năm nay đều giữ vững, thậm chí còn đánh đuổi bọn chúng phải chạy ngược về! Triết Biệt cũng chỉ là một cái tên khác thôi! Các ngươi hãy nhìn đây, hôm nay một kiếm ta sẽ chặt đầu Triết Biệt!”

Vị tướng đó hét lớn vài tiếng. Quân sĩ như được truyền sĩ khí, ai nấy đều xốc lại tinh thần, gươm giáo sáng lòa đồng loạt giương lên trời cao. Vị tướng đó mang tên Hoa Sung.

Phía sau Hoa Sung là nghĩa đệ Hỗ Quan Lặc và Bắc phương phòng thủ trấn Lý Khắc Phương. Tuy Khắc Phương là quan văn, không có chút tài nghệ võ học nào, hai phó tướng Hoa Sung và Hỗ Quan Lặc đều là cao thủ võ lâm, tiếng tăm lừng lẫy khắp đất nước.

Hoa Sung sức mạnh vô địch Thông Châu, mới hai mươi tuổi đã tay không bắt sơn dương, săn sư tử làm vui. Hỗ Quan Lặc là dòng dõi công thần dựng quốc Hỗ Thanh Nghi, được truyền lại Hỗ Gia Kích Pháp nổi danh thiên hạ, lại là đệ tử nội môn của Cương Giản phái. Lý Khắc Phương nhờ có hai vị này mà giữ được Cư Dung quan hàng tháng trời, giữ cho phần lớn dải Vạn Lý Trường Thành phần nào yên ổn.

Khắc Phương đứng trên tường thành, quắc mắt trông ra xa, nơi mà hàng ngàn kỵ binh Mông Cổ ùn ùn kéo đến, vó ngựa trên nền cát khiến cho sỏi đá bắn lên, không trung ngập tràn bụi mịt mù như nổi trận bão cát. Tướng của bọn chúng là Hoa Tranh vừa thất bại ở đây vài ngày trước, nên quân Kim không ngờ rằng chúng đã quay trở lại nhanh như vậy. Khắc Phương đã lo lắng Triết Biệt sẽ mang theo đại quân, nhưng nhìn kỹ thì số lượng quân hắn mang tới cũng chỉ cùng lắm năm ngàn, không hơn gì Hoa Tranh lần trước.

Hỗ Quan Lặc đứng sau Khắc Phương, cùng nhìn xuống tường thành mà hỏi, “Lý trấn trưởng, ta nên đóng cổng thành hay dàn cung thủ?”

Lần trước, Khắc Phương đã đánh Hoa Tranh bỏ chạy chối chết, chỉ hận một nỗi không thể bắt sống tướng địch. Cư Dung quan đã sáu trận giao tranh với Hung Nô, chưa thất bại lần nào, khiến y càng thêm thập phần tự tin. Triết Biệt tới chỉ có năm nghìn quân, nếu không nhân cơ hội này mà bắt sống hắn thì còn đợi đến bao giờ? Nếu như có cơ hội để lập đại công cho Kim quốc, lưu danh vào sử sách ngàn đời, thì chỉ có bây giờ.

Khắc Phương đáp, “Mở thành giao chiến.”

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận