• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Đại Kim bên bờ diệt vong

Chương 05: Dã tâm của Thốc Mãn Quần

0 Bình luận - Độ dài: 3,509 từ - Cập nhật:

Cách đó vài trăm dặm, một trận chiến kịch liệt cũng đang diễn ra tại ấp Trường Chinh, quận Hoành Vĩ, thành trì cuối cùng của Kim triều tại Liêu Dương.

Thốc Mãn Quần là chủ tướng phe công thành, đã tự thân điều quân công phá Trường Chinh ba ngày ba đêm. Tướng thủ thành là Khuyết Hoát Tự đã xả thân giữ thành cũng từng nấy ngày đêm, tới cả trục phá thành và máy lăng đá cũng không xâm phạm nổi tường thành. Thốc Mãn Quần, phần vì nóng lòng lập công lớn, phần vì phẫn uất vì sự kiên cường tới ngu xuẩn của Khuyết Hoát Tự, mới mời các phó tướng của mình bày mưu tính kế.

Một tiểu tướng mang tên Bất Bá Gia nói, “Người Nữ Chân không chịu được làm nhục. Ngài nghe theo kế của tôi sỉ nhục bọn chúng, chắc chắn Khuyết Hoát Tự sẽ mở cổng thành nghênh chiến.”

Quần nghe kế thấy khả thi, liền bảo Bất Bá Gia thực hiện. Họ Bất mang đầu lâu của Chu Nhậm ra trước cổng thành, vừa dong ngựa vừa rêu rao, “Liêu Dương Đệ Nhất Kích của các người gặp chúng ta cũng chỉ còn là cái xác không đầu. Bọn ta nghênh chiến với các ngươi suốt ba ngày nhưng ngươi không dám mở cửa thành ứng chiến, té ra là vì lũ người Nữ Chân các ngươi tư chất tầm thường, biết chắc sẽ thất bại nên mới chui lủi trong thành như rùa rụt cổ, phải không? Có gan thì ra đây tiếp vài chiêu của ta!”

Hoát Tự không nói không rằng, sai quân bắn tên tẩm mồi lửa xuống. Bất Bá Gia chết cháy.

Thốc Mãn Quần nổi xung, điên cuồng dùng máy lăng đá bắn hạ, đá tảng rơi xuống thành Trường Chinh rào rào như mưa. Hoát Tự một mặt treo các kiện rơm và bông len lên những nơi máy lăng bắn tới, mặt khác sai các nỏ thủ bắn tên không cho quân Mông Cổ tiếp cận đủ gần. Quân Kim sử dụng lôi bom—một loại bom nhồi đầy thuốc súng mà Mông Cổ chưa bao giờ biết đến, khiến quân Mông Cổ dè chừng không dám tiến công. Cung mới sai một toán kỵ binh nhỏ giả bộ tấn công từ phía Tây rồi rút chạy, nhưng Hoát Tự vẫn khư khư giữ thành mà không xua quân đuổi theo.

Mãn Quần phẫn uất ngồi trong trại. Vừa lúc đó, toán quân tiếp viện tới. Quần nghe tin có tiếp viện, không những không vui vẻ mà còn rầu rĩ hơn nữa. Trước giờ trong hàng ngũ tướng lĩnh Mông Cổ đều có phát thưởng và thăng chức dựa trên chiến công. Hắn đã đặt chân đến Trường Chinh nhanh nhất, muốn lập đại công để được khen thưởng, nhưng nay không những sẽ không được tưởng thưởng mà còn khó tránh khỏi quở trách. Đó là vì đội ứng viện của hắn được chỉ huy bởi không ai khác ngoài Hung Nô Lục Sát Khuyển Húc Đồ Cung.

Đồ Cung cao hai thước rưỡi, khuôn mặt hung đỏ, tiếng nói như hổ gầm, chuyên dùng một cây thương dài mang tên Ma Lôi Thương. Đứng hai bên của Đồ Cung là hai phó tướng thân tín Đồng Dao Tử và Bạt Tác. Trong đó, Bạt Tác là một trong số ba trăm đứa con hoang của Thành Cát Tư Hãn, không phải hạng võ công cao cường, nhưng được kế thừa tuyệt bí võ công Quyết Hãn Đạo chỉ tương thích với người mang huyết mạch Đại Hãn. Bạt Tác trước kia chỉ huy tấn công Bạch Tháp, chính hắn miệt mài mở đường vào thành, nhưng Thốc Mãn Quần chỉ đợi lúc có sơ hở xua binh vào tranh công, khiến hắn tức giận lắm. Đó là còn chưa kể Bạt Tác và Thốc Mãn Quần là hai đệ tử của hai bang phái đối đầu nhau—Hoàng Kim Bộ bang và Y Nhĩ giáo. Hoàng Kim Bộ và Y Nhĩ giáo cùng với Đại Nguyên giáo và Sát Cáp Thai phái là tứ đại giáo phái Hung Nô, mỗi bang phái lại có một thế mạnh riêng. Y Nhĩ giáo đi lên từ những thợ săn thiện chiến, vốn trước đây là tập hợp những bọn trộm cắp, đầu gấu, vô cùng căm ghét dòng dõi vua chúa hay chiếm cứ đất đai. Hoàng Kim Bộ bang lại chính là chính phái của Khả hãn, nên cứ mỗi năm lại xảy ra một xung đột nhỏ, chục năm lại xảy ra xung đột lớn. Đó là lý do vì sao mỗi đại tướng Mông Cổ khi chinh chiến xa nhà thường không thu nạp tướng của Hoàng Kim Bộ và Y Nhĩ trong cùng một quân đoàn. Bản thân quân của Mộc Hoa Lê đại đa số cũng là Đại Nguyên giáo đồ, rất ít người từ Hoàng Kim Bộ hay Y Nhĩ giáo.

Tuy nhiên, Húc Đồ Cung thì chẳng quan tâm gì tới thù hằn cá nhân hay đấu đá giang hồ. Cung chỉ đơn thuần là cứ thấy kẻ nào đánh giỏi thì cất nhắc.

Nhân chuyện Quần bao vây mà không phá được thành, Tác mới tâu với Đồ Cung rằng Quần chậm trễ tiến công, phải tới Trường Chinh ngay một thể kẻo chiến sự kéo dài gây bất lợi.

“Ba ngày mà không phá được một thành nhỏ, thật mất mặt chúng ta quá,” Bạt Tác nói.

Húc Đồ Cung trách mắng Thốc Mãn Quần thậm tệ vì trong ba ngày không phá nổi một thành trì nhỏ. Mãn Quần trong lòng cực hận, nhưng ngoài mặt không nói một lời. Hắn chắc mẩm lần này sẽ bị Đồ Cung phế truất, xếp hàng dưới cùng trong Ngũ Liệp Khuyển của Cung.

Hắn lui về trại, sai lính canh ngoài trại xua đuổi hết khách thăm. Nửa đêm, lính canh ở ngoài lật đật chạy vào, nói rằng có kẻ nhất quyết muốn gặp, đuổi mãi cũng không đi. Thốc Mãn Quần bất đắc dĩ phải cho gọi kẻ đó vào.

Kẻ bước vào dáng người mảnh khảnh, đôi tay dài như vượn, đôi mắt dẹt như lươn, tác phong tuy nghiêm chỉnh nhưng lại toát ra vẻ gian ác. Cung trông ra thì thấy đó là Minh An, hàng tướng của nước Kim.

Minh An cúi chào Quần rồi nói ngay, “Người Hung Nô các ông trên lưng ngựa có thể vô song, nhưng nghệ thuật vây hãm thì người Nữ Chân vẫn hơn các ông một bước. Người của ta có vài bảo bối có thể giúp ông phá được Trường Chinh.”

Trong lòng Thốc Mãn Quần có nhiều câu hỏi. Minh An vốn là người Hán, trước Nam Tống thất thế trong giao tranh với nước Kim thì qua hàng nhà Kim. Nay hắn tiếp tục quy hàng Mông Cổ, lại chính mình làm quân sư chỉ điểm cho Mộc Hoa Lê đánh vào điểm yếu Trung Đô của nhà Kim. Kẻ xảo quyệt như vậy, có kế hay lại không tìm chủ tướng Húc Đồ Cung mà lại tìm đến mình, thực ra là đang có dã tâm gì?

“Ngươi có bảo bối gì?” Quần hỏi.

“Minh An ta vốn chỉ huy Điện Thanh Binh, bọn ta ai nấy đều có thể chế tạo lôi bom, công lực gấp mười lần tên tẩm lửa. Đặt lôi bom lên xạ đạn do bọn ta chế tác, tầm bắn xa chẳng khác gì máy lăng đá. Trường Chinh có thánh thần phù trợ cũng không cứu nổi đâu.”

Quần nghe vậy, đôi mắt sáng quắc lên, nhưng vẫn cố tỏ ra bình thản. “Ngươi có trong mình bảo bối tuyệt diệu vậy, cớ sao tìm đến ta?”

“Đại tướng vốn tiếng tăm thiên hạ ít người sánh bằng. Nay Đồng Dao Tử và Bạt Tác đã tới Trường Chinh. Đồng Dao Tử là con người hòa hảo, không đáng lo, nhưng Bạt Tác vốn ỷ huyết thống Đại Hãn mà muốn trù dập đại tướng, tất sẽ tìm cách hại ông vào chỗ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cứ xuôi tay đứng nhìn? Nay ta muốn tìm đúng mãnh tướng mà trợ giúp, nếu phải đứng dưới trướng kẻ bất tài Bạt Tác thì đúng là đại họa cho quân Hung Nô. Nên ta giúp đỡ đại tướng một phen, ông thành công thì cũng là may mắn lớn cho chúng ta.”

Quần cho là phải, lại được Minh An khen ngợi thì trong lòng mừng rỡ, lập tức sai người trong đêm thiết đãi Minh An và cung cấp tài vật để hắn có thể chuyên tâm chế tạo.

Minh An lại nói, “Ông phải lên tâu với Húc thống soái cho ông lập công chuộc tội ngay, nếu không tên Bạt Tác sẽ tranh giành mất binh quyền.”

“Nếu như ta thất bại lần nữa, cái đầu của ta và ngươi đều khó giữ được,” Quần đáp.

“Đại tướng cứ yên tâm. Lôi bom của tôi đã được cải tiến, công lực gấp đôi những gì quân Kim đang có. Nếu ông còn nghi ngờ công lực của lôi bom, hãy để ta cho ông thấy.”

Minh An dắt Quần tới một khu đất trống gần chân một núi đá. Bên núi đã có một tảng đá khổng lồ, cao ba thước. Hắn lấy lôi bom ra, kỹ thuật thành thục ném thẳng vào tâm đá. Bom nổ một tiếng giòn tan, viên đá đứt làm hai đoạn, công lực vô cùng lợi hại.

Thốc Mãn Quần cả mừng, tức tốc tới xin yết kiến Húc Đồ Cung, xin bằng được Cung cho thêm một tuần để hắn có thể phá thành Trường Chinh. Đồ Cung hỏi ý kiến Đồng Dao Tử và Bạt Tác. Đồng Dao Tử ưng thuận.

Riêng Bạt Tác thì trong lòng nghi ngờ. Vốn hắn cũng muốn gây lĩnh quân phá thành để gây ấn tượng tốt với thống soái, nhưng xét thành Trường Chinh vững chãi, hàng ngũ chỉnh tề, Mãn Quần trong ba ngày chưa phá được thì thực ra cũng không phải chuyện lạ. Tác vẫn chưa nghĩ ra kế xuyên phá nên không dám lĩnh trách nhiệm. Nhưng thật may thay Mãn Quần lần này đã ngu xuẩn tự tìm đến cái chết rồi, chi bằng hắn mượn tay thống soái giết đi luôn.

Bạt Tác mới thưa, “Thốc tướng đã thất bại một trận, nhưng trước giờ lập nhiều công trạng, thống soái nên cho một cơ hội nữa. Nhưng quân luật cần phải nghiêm. Nếu tướng thất bại hai trận liên tiếp, tất phải xử chém, không thể để tổn hại đến sĩ khí quân binh.”

“Phải lắm,” Húc Đồ Cung gật gù. “Thốc Mãn Quần, ta sẽ cấp cho ngươi thêm năm trăm kỵ binh tinh nhuệ. Quân đội của ngươi trong vòng một tuần phải phá được Trường Chinh. Nếu thành công, ta sẽ thăng chức ngươi lên làm Liệp Khuyển Nhị Cấp (võ tướng hạng hai, chỉ đứng sau Đồng Dao Tử). Nếu thất bại, ngươi sẽ bị chém đầu.”

Thốc Mãn Quần tự tin đáp, “Việc này cứ để cho tiểu tướng.”

Khi Quần trở ra, đôi mắt hắn và Bạt Tác chạm nhau. Bạt Tác trong đôi mắt hiện rõ ngạo mạn. Quần cười nhếch mép, trong lòng thầm nghĩ, “Thằng con hoang thối tha. Một tuần nữa thôi ta sẽ cho ngươi sống không bằng chết.”

Các kĩ sư của Minh An bắt tay vào chế tác thuốc súng, và sau năm ngày, đã chế tạo ra lôi bom và phấn thạch xạ đạn—một vũ khí phóng hàng trăm mảnh đá nghiền nhỏ thành bột. Thốc Mãn Quần cho nỏ thủ tập luyện sử dụng lôi bom, thay thế máy lăng đá bằng xạ đạn, rồi lại dàn trận tấn công vào điểm yếu của Trường Chinh.

Khuyết Hoát Tự thấy kẻ địch sử dụng lôi bom và xạ đạn, kinh ngạc mà rằng, “Đó là công nghệ của người Nữ Chân! Kẻ phản trắc nào đã đem chúng dâng cho giặc?” Biết không thể giữ nổi tường thành, Tự lệnh cho lính lui vào trong các làng xóm, cả quân cả dân đều được cấp vũ khí mai phục trong từng căn nhà như du kích.

Tường thành đổ sập. Thốc Mãn Quần thúc quân tràn vào trong, trước khi tiến công còn không quên quay lại nhìn vào khuôn mặt kinh ngạc của Bạt Tác, kẻ đang quan sát trận ở một khoảng cách xa.

Trường Chinh đường xá nhỏ hẹp, quân dân lại đông đúc, nơi nào quân Mông Cổ tiến công cũng bị ùn tắc, khó mà đẩy nhanh tốc độ. Quần ra lệnh cho kỵ binh giày xéo lên dân chúng, cứ thấy ai chắn trước mặt là đạp chết không tha, thành ra người dân vô tội xác chết thành đống. Quân Kim dù quân số đông hơn, nhưng gần nửa là dân quân, trong khi đó kỵ binh Hung Nô ai nấy đều sức mình địch được hai người, lại quá quen với chiến thuật mai phục. Chúng lấy lôi kim kích nổ toàn bộ nhà cửa, đền chùa, giết luôn cả phục quân bên trong. Số tàn quân Kim sợ hãi, không đánh cũng tự tan. Kẻ bỏ chạy, người quy hàng. Kẻ nào quy hàng đều bị chém đầu lập tức. Quân Hung Nô ào ào kéo vào, uy vũ như thiên binh thần tướng. Đà tiến công là không thể cản phá.

Khuyết Hoát Tự biết không chống nổi, lui vào trong nhà riêng, rút bảo khí Đoạn Tuyệt Kiếm, mặc áo giáp dày, cưỡi con tú mã quen thuộc, rồi một mình một người thốc ra ngoài. “Số có tận, cũng phải ra dáng anh hùng!” Tự hô lớn.

Tự vốn dòng dõi quý tộc, xưa kia chính ông tổ là Khuyết Đoạn Gia Phàm lập đại công phá tan nước Liêu, có thể coi là công thần khai quốc triều Kim. Họ nhà Khuyết nay thế lực không còn mạnh mẽ như xưa, nhưng về võ học vẫn thuộc loại ưu tú. Khuyết Hoát Tự chính là trưởng nam của Khuyết tộc, còn trẻ tuổi mà nội công đã tu luyện tới tầng thứ hai, thuần thục võ công hai tông phái Đắc Kỷ và Thần Truyền Khiết Đan.

Tự bắt gặp ba lính kỵ Mông Cổ gần miếu thờ tổ vật, đang ra sức bắt đàn bà con gái trốn trong đó, lôi xồng xộc từng người ra ngoài. Tự thúc ngựa áp sát, vung một kiếm, xả một tay lính đứt làm đôi. Hai tên lính kia đồng loạt phi ngựa, hai bên hai kiếm, cử động đồng bộ như đọc được ý nghĩ nhau. Một kẻ vung kiếm chém ngang ngực Tự, kẻ kia nhắm lấy mắt ngựa để chọc mù.

Hoát Tự rút trường kiếm, oán khí bao bọc thanh kiếm một màu đen tuyền. Tên đang nhắm tới ngực Tự bị giật mình. Trong tích tắc lưỡng lự của hắn, Tự né tránh thành công, rồi vung lưỡi kiếm chặn đứng lưỡi kiếm tên đang nhắm mắt ngựa. Một tay còn lại của Tự vật tên kia ngã xuống ngựa. Tự và tên kỵ binh trên ngựa đấu nhau ba hiệp thì tên bị vật khỏi ngựa đứng dậy. Hoát Tự xoay mình, hô lớn, “Tuyệt Tẫn Trảm!” Rồi một đường kiếm được bao bọc bởi bóng tối đen sì được tung ra. Tên kỵ binh hoảng hốt đỡ đường kiếm, nhưng kiếm của hắn cũng gãy làm đôi. Đường kiếm của Hoát Tự xả hắn làm đôi như cắt qua lá liễu, chém đứt luôn cổ của tên còn lại đang đứng gần.

Tự đỡ những người phụ nữ kia dậy, hối thúc, “Mau ra khỏi đây!” Mấy người đó đồng loạt quỳ sụp cảm tạ, rồi hộc tốc chạy khỏi đền. Nhưng vài người chạy ra được bên ngoài thì lần lượt bị một thanh trường kích xiên chết. Số còn lại la hét, chạy lại vào trong đền.

Kẻ chặn đường Tự cưỡi một con ngựa lông màu vàng cát, giống ngựa chiến thuần chủng giành cho tướng lĩnh Hung Nô, tay múa một cây rìu lớn, còn cây kích ban nãy hắn dùng được đeo lại sau lưng. “Ngươi giết người nhà của ta, thù này phải trả,” kẻ đó thét lớn. Đó là Chu Bộc Luân, người anh vợ của Bất Bá Gia.

Không nói không rằng, Bộc Luân thúc ngựa vào ứng chiến lập tức. Hoát Tự đỡ đòn năm hiệp, hiệp nào cũng bị đẩy lùi một bước, ép vào góc đền.

Khuyết Hoát Tự lòng đầy âu lo. Đây chỉ là một tướng quèn Hung Nô mà thôi, mà đã khiến hắn vừa đánh vừa lùi. Binh sĩ Mông Cổ, ai nấy đều thể chất bất phàm thế này sao?

Chu Bộc Luân thét lớn một tiếng, vận lực, xuất ra tuyệt chiêu. Cây rìu của hắn lóe sáng, như thể hấp thụ tinh lực từ mặt trời. Hoát Tự hiểu rằng nếu hắn cố chống đỡ, kết cục của hắn sẽ hệt như tay lính kỵ bị xả làm đôi vừa rồi.

Hoát Tự nằm vật xuống ngựa. Cây rìu của Bộc Luân chém đứt búi tóc trên đầu Tự, xả sâu vào tổ vật bằng đá hoa cương ở góc đền. Công lực của Bộc Luân mạnh đến nỗi lưỡi rìu chém vào tận thân tổ vật, nhưng vì đâm quá sâu, hắn không thể rút rìu ra kịp thời. Khuyết Hoát Tự vòng ngựa lại phản công, khiến Bộc Luân phải bỏ rìu, rút kích ra chống đỡ. Hai người tỉ thí với nhau thêm hai mươi hiệp, bất phân thắng bại, nhưng động tác của Bộc Luân dần trở nên dễ đoán định. Nhận thấy thời cơ chín muồi, họ Khuyết nhân cơ hội đối phương chậm trễ, cho bản thân thời gian trở mình, thu nạp nội công. Hoát Tự xuất chiêu Tuyệt Tẫn Trảm, chính xác cắt ngang yết hầu Bộc Luân. Bộc Luân ôm lấy cổ, hộc máu mồm máu mũi, gục trên lưng ngựa mà chết.

Lính Mông Cổ tràn vào trong đền đốt phá. Hoát Tự hét lớn vài tiếng, múa kiếm giết thêm được năm tên nữa thì nhận ra rằng xung quanh bốn bề đều là biển lửa, nóng bỏng rạo rực.

Một tướng Hung Nô cưỡi ngựa thong thả bước vào. Lửa bùng lên tả hữu khi hắn thong dong, một tay cầm đại đao, tay kia vuốt râu, miệng ngâm, “Trường Chinh chỉ còn là mây khói. Xung quanh ngươi chỉ còn lửa và máu. Nếu ngươi ngoan cố, chắc chắn chỉ có một nước chết. Thật may mắn cho ngươi, hôm nay ta đang cảm thấy từ bi. Nếu ngươi quỳ xuống, quay đầu về phương Bắc khấu đầu năm lần, ta có thể sẽ giữ lại mạng ngươi.” Kẻ ấy là Thốc Mãn Quần.

Nhận thấy chỏm lông đỏ trên đầu, Hoát Tự biết là chủ tướng quân Mông. Hắn nghiến răng, tay nắm chặt bảo kiếm, hét lớn, “Giặc Mông láo toét! Nếu ta có chết ở đây, cũng phải kéo ngươi cùng xuống âm phủ!”

Quần cười một tiếng lớn, múa đao thúc ngựa xông pha. Hoát Tự biết mình cần phải gây bất ngờ, lập tức sử dụng tuyệt chiêu Tuyệt Tẫn Trảm, khiến cho bóng tối bùng nổ thành những bong bóng trong không gian. Đường kiếm của Hoát Tự dẫn theo một tia đen như vực sâu thăm thẳm, mọi tinh túy của Thần Truyền Khiết Đan đều được tập hợp vào trong đó.

Quần không né tránh, lấy đại đao đỡ đường kiếm giữa không trung, cánh tay thậm chí còn chẳng nhúc nhích.

"Không thể nào! Hắn còn không chút di dịch?" Tự cả kinh, lui lại.

Kì thực, Thốc Mãn Quần đã bí mật thi triển Cường Hóa Thiết Thủ Tý, cánh tay cứng rắn như quặng đá trong thân núi. Quần tiếp tục dong ngựa áp sát, tốc độ thượng thừa, thân pháp biến ảo, Hoát Tự chống đỡ vô cùng vất vả. Tay Quần cứng như đá mà tốc độ ra đòn vẫn nhanh như chớp, Hoát Tự thậm chí không thể theo nổi dòng lưu chuyển nội công của hắn, không đoán nổi hắn đã luyện công tới tầng thứ mấy rồi.

“Ta đã cho ngươi cơ hội,” Quần nói. “Đừng trách ta tàn nhẫn.”

Thốc Mãn Quần chỉ đánh thêm ba hiệp đã chém đầu Khuyết Hoát Tự lăn lông lốc dưới đất.

1. Ma Lôi Thương: Vũ khí của Húc Đồ Cung. Sẽ được cập nhật sau.

2. Quyết Hãn Đạo: Sẽ được cập nhật sau.

3. Tứ đại giáo phái Mông Cổ: Sẽ được cập nhật sau.

4. Đoạn Tuyệt Kiếm: Sẽ được cập nhật sau.

5. Thần Truyền Khiết Đan: Sẽ được cập nhật.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận