• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Đại Kim bên bờ diệt vong

Chương 08: Nước Nga bị tiêu diệt

0 Bình luận - Độ dài: 3,074 từ - Cập nhật:

Quay lại chuyện luyện thuấn bộ của Hoàn Thừa Lân và Ô Di Hà. Chẳng nói thêm lời nào, Ô Di Hà phi ba gọng cỏ cùng một lúc. Vốn là ba gọng cỏ mềm, nhưng vào tay Hà phi đi nhanh thoăn thoắt, chẳng khác gì phi tiêu, ám khí thượng hạng. Thừa Lân cảnh giác, lập tức giậm chân một bước, nhảy lên né tránh, nhưng chỉ tránh được gọng cỏ phía dưới. Gọng ở giữa găm vào đùi cậu, gọng trên chọc trúng ổ bụng, cảm giác không đau nhưng có chút rát bỏng như bị kiến đốt.

Thừa Lân chạm đất thì Hà đã nhặt thêm ba gọng cỏ nữa rồi. Hà lắc đầu chầm chậm mà rằng, “Chỉ có phản xạ là không đủ. Trên không trung đệ còn phải luyện đôi mắt tinh anh, nhìn được mục tiêu của mình. Có vậy mới né tránh được đòn tấn công, mới tìm được điểm và tư thế tiếp đất nào để tối đa tốc độ nhất.” Nói rồi lại phi ba gọng cỏ nữa. Tiếp tục hai gọng phía trên trúng người Thừa Lân.

Thừa Lân nghĩ bẩm quái lạ, mình vốn đã nhanh nhẹn nhất có thể, nhưng ba phi tiêu phi tới cùng một lúc thì sao có thể né tránh? Nhưng rồi cậu ngẫm lại lời của Hà, thầm nhủ, “Ta cần tập trung quan sát, chứ không phải dùng hết nội công chỉ để bật nhảy.” Cậu cố gắng quan sát từ cách cầm cỏ của Hà cho tới hướng phóng của ba mũi phi tiêu. Nhưng để nhìn được cả ba mũi một lúc thật khó khăn, dù cho chúng có bay theo cùng một phương.

“Nếu như ta chỉ quan sát một, rồi dùng hiểu biết của ta về phương di chuyển của cỏ mà đoán định vị trí của những mũi cỏ kia thì sao?” Thừa Lân nghĩ. Cậu chọn mũi cỏ ở giữa mà tập trung quan sát. Đột ngột, gọng cỏ trước mặt cậu như di chuyển chậm lại. Không, không phải nó chậm lại! Cậu cảm giác một luồng khí rất đỗi sảng khoái truyền lên trên đầu mình, khiến tâm trí cậu minh mẫn lạ thường. Không chỉ nhìn thấy gọng cỏ trước mắt không còn quá nhanh nữa, cậu còn có thể lờ mờ đoán được hai gọng còn lại đang ở vị trí nào.

Cậu oằn người né được gọng cỏ ở giữa, nhấc chân tránh được gọng ở dưới. Khi cậu nhận ra gọng cỏ ở trên đã tiến sát thì quá muộn, nên cậu để nó chọc phải đầu ngón tay. Ô Di Hà phấn khởi mà rằng, “Đã khá hơn rồi! Quả thực là có tư chất.”

Thêm vài lần nữa, Thừa Lân đã tránh được cả ba gọng cỏ, dù vẫn còn lúc để một gọng đánh trúng. Ô Di Hà mới đứng dậy hỏi, “Em cảm thấy thế nào? Nguồn nội công trong người đã rõ ràng hơn chưa?”

“Em đã biết khi nào nội công xuất hiện, chúng ở đâu trên cơ thể, và điều hướng chúng tới các phần trong cơ thể mình rồi, dù nhiều lúc dòng nguyên khí vẫn không nghe lời em,” Thừa Lân đáp.

“Khá lắm. Không vận dụng được nội công thì tiềm năng có dồi dào tới mấy cũng chỉ là người phàm thôi.”

“Làm thế nào để em có thể khai thác nội công nhiều hơn nữa?”

“Hãy cứ tập trung thành thục sử dụng những gì mình đang có đi đã. Khai mở nội công thì có nhiều cách lắm. Kẻ vào sinh ra tử nhiều trận tự khắc biết vận dụng theo kinh nghiệm, như ta đây. Những kẻ khác tìm chỗ thanh vắng luyện công, có kẻ đóng cửa hàng chục năm trời chỉ theo đuổi việc luyện công. Ta cho rằng những kẻ đó thực là vô dụng.” Ô Di Hà thở hắt một tiếng. “Có công lực để làm gì khi chỉ giữ nó vì mục đích ích kỷ luyện thân, không đem ra cứu giúp dân chúng?”

“Vậy cứ càng chiến đấu nhiều, càng luyện công nhiều là cứ vậy mạnh lên?” Thừa Lân lại hỏi.

“Không; không. Đơn giản như vậy thì ai cũng thành thống soái.” Ô Di Hà xua tay. “Cũng phải xem tư chất của người đó ra sao. Có người tiến thân rất nhanh hồi trẻ nhưng rồi không phải triển được nữa, vì ngưỡng của người ta chỉ có thế. Có những người cũng đột phá phá ngưỡng lên cao hơn, nhưng phải tới bốn chục, năm chục tuổi mới làm được, vì dù ngưỡng cực hạn của họ cao nhưng ngộ tính của họ không cao. Nói chung là có nhiều điều phức tạp, em tự trải nghiệm sẽ hiểu ra.”

“Nếu chỉ có năm tầng nội công, tại sao đột phá cảnh giới lại mất nhiều thời gian như vậy?” Thừa Lân hỏi.

“Ni Kham sư phụ không giảng giải gì cho em sao?” Ô Di Hà hồ nghi.

“Sư phụ có nói đến, nhưng không nhắc tới sâu. Sư phụ nói rằng để em tự trải nghiệm mới ngộ ra nhiều điều.”

“Bản thân trong các tầng nội công cũng có các cấp độ khác nhau. Như ở tầng thứ nhất có Nhất Tầng Sơ Cấp, Nhất Tầng Trung Cấp, Nhất Tầng Cao Cấp. Mức độ chênh lệch giữa các cấp không lớn như khi đệ đột phá từ tầng thứ nhất cao cấp lên tầng thứ hai sơ cấp, nhưng những chênh lệch là có thể cảm thấy được.”

Thừa Lân thở dài. “Đến bốn mươi tuổi mà mới đột phá thì lúc đó giặc đã san bằng cả Kim quốc rồi!”

Ô Di Hà vỗ vai Lân. “Nhưng em hãy nhớ, nội công không phải thứ duy nhất. Người Dã Nhân chúng ta đại đa số còn không vượt quá tầng nội công đầu tiên, nhưng ai nấy đều thân thể cường tráng, tay không xuyên phá được chiến giáp, sức địch nổi hai tinh binh triều đình. Ngoài nội công, em cần có cả thể trạng, tốc độ, khéo léo, và quan trọng hơn là cả trí tuệ nữa. Những thứ đó, chúng ta sẽ tích lũy qua thực chiến. Ngoài chiến trường kia, kẻ nào thông tuệ hơn là kẻ sống sót.” Giờ lại đến lượt Hà thở dài. “Tiếc là con người sống chết có hạn, khi mà công lực dồi dào, trí tuệ thông mẫn thì thể chất lại suy yếu, chân tay chậm chạp. Tuổi của ta đang là sung mãn nhất, có được sự cân bằng của cả nội lẫn ngoại công, cũng thật may mắn có thể góp chút sức mọn này chống giặc Hung Nô.”

Hai người luyện tập một lúc nữa thì trời đã tờ mờ sáng. Hai người định thu dọn ra về, thì khi Thừa Lân dắt ngựa đi mới nhớ ra một điều mà hỏi Hà, “Không biết anh đã luyện nội công tới cảnh giới nào?”

“Ta đã là Tam Tầng Sơ Cấp rồi,” Hà đáp.

Thừa Lân đôi mắt sáng lên, ngỏ ý muốn biết sức mạnh của tầng thứ ba khác với tầng thứ nhất thế nào.

“Được thôi. Ta có một số tuyệt kĩ của Đắc Kỷ phái, để ta cho em xem vài chiêu.” Nói rồi, Ô Di Hà cho đao vào lại trong vỏ, đứng trước mặt một gốc cây lớn, hai chân trụ thấp xuống. Rồi Hà vận chân khí vào một tay, kết hợp với sức mạnh thể chất đấm thẳng một cú. Cú đấm của họ Ô Di xuất phát thật nhanh, phía sau xuất ra một tia màu tro, nhưng nắm đấm cũng nhanh tới độ mà tia sáng cũng phải chạy đuổi theo nắm đấm của hắn. Xung quanh kêu lên một tiếng ‘rầm’ vừa đủ để Thừa Lân phải lui lại đôi bước, lại tỏa ra làn khói xám trắng nghi ngút. Lân nhìn kỹ thì thấy thân cây đã lõm lại một mảng to như âu nước, vỏ cây toác một mảng trơ thân to cỡ miếng giấy cói, lá bạch dương từ ngọn cây tít trên cao rung lên rào rạc, vài tán lá nối đuôi nhau rụng xuống, thậm chí xung động còn khiến vài cành cây kế bên cũng rung lên theo.

Thừa Lân xuýt xoa, trầm trồ khen ngợi rồi hỏi, “Chiêu vừa rồi của anh là chiêu gì vậy?”

“Đó là Cưỡng Lực Quyền, đòn đánh đơn giản mà mãnh lực của Đắc Kỷ chúng ta. Ta chưa vận công hết sức đâu, vì nếu gây ra tiếng động lớn không những có thể đánh thức các huynh đệ mà còn đánh động cho kẻ địch nếu chẳng may chúng đang ở gần đây.”

Thừa Lân lấy làm kinh ngạc. Vậy ra đòn quyền đó còn có thể mạnh nữa? Nếu cậu mà trúng một đòn có lẽ sẽ thổ huyết mà chết mất.

“Bây giờ trời đã gần sáng, hôm khác ta luyện tập tiếp. Ta hãy về nhanh không các huynh đệ lại tốn công đi tìm,” Hà nói. Rồi hai người họ, Thừa Lân cưỡi ngựa, Ô Di Hà đi chân trần trở về.

***

Lại nói về chuyện ở miền viễn Bắc. A Cáp Công dẫn Sình Dương cùng đoạn kỵ binh của hắn về nhà riêng của mình. Ngồi trong nhà riêng của họ A Cáp là hai người em kết nghĩa, Ni Kham Gia Khảm và Hắc Quả, cùng với vợ của A Cáp Công là Uông thị.

Ni Kham Gia Khảm, trưởng nam của họ Ni Kham, vốn trước từng nhiều năm luyện võ cùng Hoàn Thừa Lân. Tuy Gia Khảm về tiềm năng võ học không bằng Thừa Lân, các chiêu thức tinh hoa của Hạc Kiếm pháp gần hai chục năm vẫn chưa luyện thành, nhưng nội công cũng có phần dồi dào, đã luyện tới Nhất Tầng Cao Cấp. Ngồi bên cạnh Hắc Quả không phải một kẻ tầm thường. Hắn là môn đồ của Thân Dương phái gia truyền của A Cáp gia, tuổi mới hai mươi mà đã được tù trưởng trọng vọng, cất nhắc vào trong đội Thập Cận Vệ, vốn là mười võ hiệp ngoại tộc danh giá nhất của môn phái.

Vùng viễn Bắc vốn hai trăm năm nay đều yên bình, ít phải động binh. Thấy kỵ binh tự nhiên điều động số lượng lớn như vậy, cả Gia Khảm lẫn Hắc Quả đều chột dạ, rút kiếm ra chực chiến.

A Cáp Công thấy vậy mới vội chạy lại. “Hai em xin chớ động thủ. Người tới đây không có ác ý. Đây là An Tôn Sình Dương, nhưng anh cứ gọi vị đại hiệp này là Sình ca. Người này muốn mượn đường chúng ta diệt giặc Hung Nô, nên ta cho họ trú ở đây một ngày.”

Gia Khảm nói, “Thuyền săn cá voi còn chưa đóng xong, anh kiếm làm sao đủ đồ ăn nuôi một trăm miệng? Phá cả nhà ra lấy gỗ bán may ra mới đủ!”

Hắc Quả ngó lại trông Sình Dương. Hắn cao gần ba thước, da trắng như tuyết, môi tím như quả bồ đào, tóc tựa vàng kim, đôi mắt xanh dương băng lạnh, ngũ quan đều kết cấu lạ lùng nhưng dễ nhìn, Hắc Quả chưa thấy ai như vậy bao giờ. Họ Hắc hồ nghi, mới rằng, “Trước giờ làm gì có người nào tiến xuống từ viễn Bắc? Kẻ này chưa biết là người hay quỷ, lại mang nhiều kỵ binh, khí giới như vậy, lời từ miệng hắn sao có thể tin tưởng? Biết đâu đang đêm hắn giở trò đạo tặc, cướp bóc?”

Sình Dương thấy vậy mới xuống ngựa, yêu cầu toàn bộ kỵ binh ném khí giới xuống mặt đất. Hắn khom mình chào ba người trước mặt, nhã nhặn nói, “Ta không có ý xấu gì, vô ý ngu xuẩn khiến các vị lo lắng. Nếu cần thiết, bọn ta sẽ cất hết khí giới, ngày nào còn ở trên đất các vị sẽ không động tới. Chỉ mong ba vị dành chút thời gian nghe chuyện của ta, hiểu nỗi lòng của ta.”

A Cáp Công mời An Tôn Sình Dương vào làm chén rượu nhạt, nói đoạn lại sai Uông thị đun rượu và trà nóng bưng lên. Sình Dương kể hết chuyện cho bọn Công, Khảm, Quả. Hắn vốn là con trai thứ của Mỗ Đế Lạp, Đại hoàng tử của nước Nga La Tư. Mỗ Đế Lạp khi còn sống là một vị vương quân dũng mãnh, trung thành, từng bảo vệ nước Nga khỏi giặc Huân Gia Lợi, được Sa hoàng tin cẩn giao phó trấn thủ thành phố Cơ Phụ. Vào năm 1223, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn cử mười sứ giả đến đàm phán. Bọn chúng ra điều kiện vô cùng ngạo nghễ: hoặc người Nga đầu hàng, hoặc chấp nhận liên minh, xưng thần với Mông Cổ, gọi Khả hãn là Đại đế. Mỗ Đế Lạp nổi giận đùng đùng, cho hành quyết tất cả sứ thần.

Thế nhưng, quân Mông Cổ có lí do để ngạo nghễ. Hai Đại nguyên soái Tốc Bất Đài và Triết Biệt tiến công như vũ bão, trong Trận sông Khởi Sàng chỉ ba ngày đã đánh tan đại quân của Mỗ Đế Lạp, bắn sống Lạp tại một ngọn đồi gần đó. Quân Mông bất ngờ tấn công quân liên minh Nga—Khố Man khi họ vừa mới vượt sông Khởi Sàng, chuyển đổi nhanh chóng từ kỵ binh cung thủ dùng tên tẩm mồi lửa sang các cuộc tấn công ồ ạt và cực kỳ nhanh chóng bởi đội phong kỵ thiện chiến của Triết Biệt, lại dùng Yên Vụ Đạn (bom khói của người Mông Cổ) khiến cho đội quân tiếp ứng của Khố Man không thể tiếp trợ kịp thời. Quân Nga lần đầu tiên gặp phải chiến thuật dị thường và mãnh lực thần tốc tới vậy, chống không nổi, quân lực hơn gấp bốn lần vẫn đại bại. Mỗ Đế Lạp vội chạy về thủ thành ba ngày ba đêm, gửi Hoàng túc Sình Dương tới cầu viện người man tộc Bố La Đức. Nhưng lũ người man tộc tráo trở không những không ứng cứu mà còn bí mật liên kết với quân Mông Cổ mang một ngàn quân tới đánh.

Đó là trận chiến đầu tiên đi vào lịch sử của Sình Dương. Đội Băng Kỵ của hắn gồm một trăm người đã biến toàn bộ một nghìn quân Bố La Đức thành những tảng băng trôi di động. Người Bố La Đức lúc đó không biết, Sình Dương chính là người đầu tiên luyện thành công pháp đã thất truyền của đại tộc Sa hoàng: Hoán Nhân Băng Tiễn.

Nhưng khi Sình Dương trở về thì thành Cơ Phụ đã sụp đổ. Gạt lệ, hắn phải dắt quân đội của mình trốn chạy. Triết Biệt quyết đuổi theo hắn giết tận gốc, nhưng hắn mạnh dạn chiến tay đôi với Biệt, khiến họ Triết phân tâm, nhân lúc đó bỏ trốn thành công. Triết Biệt đuổi tới Tây Bá Lợi (Siberia) thì thu quân về, không đuổi nữa, để Sình Dương sống chui lủi trong đó. Người thường không thể sống nổi giữa cái lạnh thấu da xứ Tây Bá Lợi; nếu không vì thể chất băng kỵ của họ An Tôn thì họ chắc chắn đã chết trong rừng.

Trong đội quân đông đảo của Nga được phái đi chiến đấu với quân Mông Cổ, chỉ một phần mười trở về được nhà. Đó là lần đầu tiên kể từ cuộc tấn công của Hung Nô vào châu Âu hơn bảy thế kỷ trước, một lực lượng châu Á đã xâm chiếm châu Âu và tiêu diệt hoàn toàn một đội quân lớn. Tin tức này rúng động toàn bộ châu Âu lúc bấy giờ.

Tốc Bất Đài và Triết Biệt ăn mừng chiến thắng bằng một đại tiệc kéo dài nhiều ngày trên Hắc Hải. Vị khách danh dự là hoàng tử bại trận Mỗ Đế Lạp và hai người con rể ba người bị bọc trong những tấm thảm nỉ, nhét bên dưới sàn nhà, rồi cứ thế bị nghiền nát khi quân Mông Cổ uống rượu và ca kịch suốt đêm trên sàn nhà phía trên.

Tin tới tai Sình Dương, chàng đau buồn một phần thì phẫn uất mười phần. “Ta sẽ săn cho tới tên Hung Nô cuối cùng!” Chàng thề độc, rồi cùng một trăm năm mươi bảy băng kỵ của mình, ai nấy đều trích máu, đồng thanh, “Trả thù Mỗ Đế Lạp! Trả thù Phụ Cơ!”

Sình Dương tự biết sức mình còn kém cỏi, không phải đối thủ của hai danh tướng Mông Cổ. Nay nghe tin quân Mông Cổ không những đã đánh chiếm Nga quốc, lại còn nhăm nhe bành trướng xuống phía Nam, lòng tham vô đáy, Sình Dương căm tức vô cùng. Hắn nghĩ nếu Mộc Hoa Lê hắn không thể đánh bại, thì không bao giờ có cơ hội lấy đầu Triết Biệt và Tốc Bất Đài, trả thù cho cha. Vả lại, nước Kim trước giờ đều có truyền thống quân sự. Nếu có thể kết đồng minh với nhà Kim, sẽ có cơ hội phục hưng Nga La Tư. Vậy nên trong hàng tháng trời hắn đã dong ngựa về phía Nam, tự sưu tầm tài liệu nước Kim, học chữ nước Kim, vừa lúc nói được sõi thì đặt chân tới biên giới.

Nghe xong câu chuyện, A Cáp Công cảm động rưng rưng nước mắt, Gia Khảm thì không nói một lời. Chỉ có riêng Hắc Quả đập mạnh chén rượu xuống bàn, quát lớn, “Sình Dương bảo hắn từng đấu với Triết Biệt mà sống sót trở về sao? Triết Biệt võ công còn hơn Tổng tư lệnh Hung Nô Mộc Hoa Lê một bậc! Chuyện của ngươi, ta không tin.”

Nói rồi, Hắc Quả mới rút kiếm từ sau lưng ra. “Trên đời không lời nói nào thật lòng bằng lời của mũi kiếm. Giờ ngươi cầm vũ khí lên. Ta đây tài sức ngu mọn, nhưng cũng dám thử với ngươi một trăm hiệp, xem kì thực tài năng của ngươi đến đâu!”

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận