Tập 01: Đại Kim bên bờ diệt vong
Chương 04: Phá trại Hung Nô
0 Bình luận - Độ dài: 2,887 từ - Cập nhật:
Sương đêm về nặng nề, cố gắng giương mắt nhìn kỹ càng nhất cũng không thấy nổi hàng cây tùng xà ở cánh rừng cách chưa đầy một dặm. Ô Di Đạo cùng các huynh đệ một bọn hai mươi ba người quây quần, đánh chén một bữa no say, nhưng tới lửa đốt cũng phải bịt sỏi đá kín mít để khói không bốc lên nhiều. Nếu khói bụi mù mịt tất sẽ bị phát hiện.
“Mấy hôm nay chúng ta đi săn còn phải hạn chế,” Ô Di Hà nói với Hoàn Thừa Lân, “Quân Mông Cổ đã biết vị trí của chúng ta ở đâu, bọn chúng đang cử trinh sát ráo riết, nếu không vì đại quân phải tiếp tục chinh chiến thì chúng ta đã chết hết rồi. Kì thực là may mắn lắm mới gặp được cậu.” Rồi tiếp lời, “Xin cậu đừng khách sáo. Ni Kham kiếm pháp không thuộc chính tông nào, số lượng môn đệ cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, cũng từ trước tới giờ chưa bao giờ tham gia vào tranh chấp môn phái, nhưng không vì thế mà bọn ta khinh miệt. Giờ đây quốc gia lâm nguy, dù là người từ tông phái nào cũng có chung một kẻ thù. Nếu cậu không chê bọn ta hạng tiểu tướng vô danh, thì xin cứ gọi bọn ta là anh.”
Thừa Lân vội vàng tạ lễ, gật đầu đồng ý lập tức. Nghi thức kết huynh đệ của họ vô cùng đơn giản: với người Dã Nhân, mọi chuyện kết thân đều từ những bình rượu quý. Hai người họ tu hết một âu rượu, thế là thành huynh đệ.
Ô Di Hà trọng vọng Thừa Lân vô cùng, cho ngồi chung mâm với bốn anh cả Thiết Lĩnh, gồm nhất ca Ô Di Hà, nhị ca Kiều Sinh Nhai, tam ca Cổ Mạnh Ninh và tứ ca Ô Di Đạo. Phần lớn người trong bọn Ô Di Hà đều xuất thân bần nông hoặc du mục, thậm chí có cả hai ba kẻ vốn phường sơn phỉ, nay cũng góp sức vì việc lới. Khác với những người kia, bốn người này không từng làm tướng lĩnh triều đình thì cũng xuất thân từ Tắc Kỷ tông giáo từng có tiếng tăm khắp bình nguyên Bắc cực.
“Bọn ta đều theo Tắc Kỷ phải của tộc Dã Nhân. Kiếm, thương, cung, mâu, kích, bọn ta đều thành thục. Nhưng bản thân ta ưa thích nhất cây rìu chiến này.” Kiều Sinh Nhai khư khư cây rìu sắt bên mình, một cây rìu bằng bạc nặng trăm cân, trên cán khắc chữ Quần Nghi Phủ.
“Em nghe danh Tắc Kỷ đã lâu, quả nhiên tông môn Tắc Kỷ phái đều dũng mãnh, cầm trọng khí mà nhẹ bẫng như đoản kiếm, sức mạnh vô song.” Lân đáp.
“Em cứ quá khen,” Cổ Mạnh Ninh hồ hởi đáp. “Tắc Kỷ phái chúng ta tuyệt đại đa số chỉ rèn luyện ngoại công. Nội công của em ấy, ta xem chừng mới ở tầng thứ nhất mà đã đáng gờm như vậy rồi, ắt hẳn là tiềm năng cũng lớn lắm.”
Ô Di Hà ngoài mặt không nói một lời, nhưng bên trong còn nhiều điều suy xét. Thuấn bộ của Hà—thứ mà giúp cho đôi chân của Hà giảo hoạt khôn cùng dù cho thân thể to lớn—không phải là võ công tộc Dã Nhân, cũng chẳng phải là bộ pháp của chính tông nào cả. Pho sách mà Hà tiếp nạp bộ pháp này, hắn cá chắc rằng trong thiên hạ số người đã đọc qua chỉ có trên đầu ngón tay. Vậy mà Thừa Lân chỉ mới nhìn qua hắn khinh công trên ngọn cây mà đã có thể bắt chước, mười phần giống năm, sáu phần.
Ngồi trong góc, Ô Di Đạo khề khà lấy tay không lau rượu trên môi. “Nhãi con này tư chất khá, nhưng Cổ huynh nói như vậy thật quá lời! Nội công thì có gì mà cao siêu chứ? Ta ngồi nhà săn hươu bắt sói cũng khai mở tầng thứ hai rồi!”
Thừa Lân không cho là vậy. Chàng phải khổ cực năm năm trời mới đả thông được kinh mạch. Để luyện lên tầng thứ hai, nếu dễ dàng tới vậy, chẳng phải người Dã Nhân ai cũng phải khai mở được rồi sao?
Thừa Lân hồi tưởng lại lời giảng giải của lão sư khi chàng mới nhập môn. “Khai phá nội công cũng có năm tầng. Khai mở tầng thứ nhất, con có thể sử dụng nội công để khuếch đại ngoại lực, đả bại hai người cùng lúc. Khai mở tầng thứ hai, nội lực của con dồi dào hơn mười lần, con có thể đánh bại năm người. Khai mở tầng thứ ba, con có thể hoán chuyển nội công thành nguyên khí, dùng tay không thôi mà cả chục người cũng không lại được. Khai mở tầng thứ tư, nguyên khí của con có thể bắn ra chưởng pháp, triệu hồi linh thú, ba chục người bao vây con cũng có thể phá vây. Khai mở tầng thứ năm, kinh mạch của con liên hợp với ngũ khí trời đất, một trăm tinh binh cũng khó lòng cản nổi.”
Chàng thắc mắc làm thế nào để một mình có thể đối đầu được cả một binh đoàn. Gia Tịnh nhấp chèn trà, lắc đầu khoan thai. “Một người diệt vạn quân chỉ có trong tiểu thuyết tu tiên mà thôi. Sinh thời ta chưa từng thấy ai sức mình đọ được vài trăm quân, chứ chưa nói tới một binh đoàn. Cả cha ta cũng chưa thấy. Cả ông ta cũng chưa. Nếu Thành Cát Tư Hãn có thể tự lực diệt vạn địch, hắn đã không cần đến kỵ binh đặc chủng.”
Thừa Lân tỉnh khỏi dòng suy nghĩ thì bốn vị kia đã uống sạch một âu rượu rồi. Cổ Mạnh Ninh thấy Ô Di Đạo hống hách, mới nói, “Nếu em tài năng vậy thì sao khi tướng Mông Cổ Húc Đồ Cung tới Liêu Dương, em mới đánh năm hiệp đã phải quay ngựa chạy?”
Nghe tới cái tên Húc Đồ Cung, Ô Di Đạo đã giật mình, đánh rơi cả chén rượu. “Anh đi mà giáp chiến với hắn! Lúc đó rồi biết.”
“Cái tên Húc Đồ Cung anh mới nghe lần đầu, nhưng nghe nói hắn là một trong số Lục Đại Sát Khuyển của Mộc Hoa Lê,” Kiều Sinh Nhai phân bua. “Thực sự võ công của hắn không thể xem thường. Nghe đâu Chu Nhậm bị Húc Đồ Cung chặn đánh, chỉ chưa đầy mười hiệp đã bị hắn xả làm đôi.”
“Chỉ mới là phó tướng của Mộc Hoa Lê mà đã lợi hại như vậy, thế thì chủ tướng sẽ dũng mãnh tới nhường nào?” Cổ Mạnh Ninh giọng trầm trầm đáp.
“Chu Nhậm sao?” Thừa Lân cả kinh. “Liệu có phải anh đang nhắc tới Liêu Dương Đệ Nhất Kích Chu Nhậm?”
“Chính hắn,” Cổ Mạnh Ninh đáp.
Ô Di Đạo phủi tay. “Chu Nhậm tự xưng độc cô cầu bại xứ Liêu Dương, nhưng cả đời chưa bao giờ dám tỉ thí với danh tướng nào của triều đình, chứ chưa nói tới cao thủ võ lâm thiên hạ. Vậy thì thực sự trình độ của Nhậm là tới đâu?”
“Chắc chắn là hơn em rồi,” Cổ Mạnh Ninh nhún vai.
“Em nói cho anh biết! Em mà lì lợm nghênh chiến, chắc chắn cũng phải đỡ được hơn mười chiêu của Đồ Cung!”
Ô Di Hà khoát tay cho tất cả dừng lại. “Không bàn chuyện đó nữa. Giờ đại quân của Húc Đồ Cung đã rút lui, chỉ còn hai trại nhỏ đóng ở đây, không chịu rời đi. Trại của chúng quân số phải gấp bốn lần chúng ta, lại còn đã biết ta ở đâu, e rằng không ra tay trước tất không xong. Giờ trong bốn người các em, có ai có ý kiến gì không?”
Ô Di Đạo ủng hộ nghênh chiến trực diện, Cổ Mạnh Ninh cho rằng nên rút lui lên Hồ Lý Cải. Ô Di Hà đều cho là kế không hay. Rốt cuộc không ai đưa ra được cao kiến.
Thừa Lân quan sát một hồi, rồi mới đặt chén rượu xuống, chắp tay cung kính, “Nếu các anh không chê, em có một kế sách.”
Ô Di Hà hỏi kế là gì.
Thừa Lân đáp, “Em đã kịp quan sát cách bài trí trại của chúng. Ban ngày chúng còn không bố trí canh phòng, tất ban đêm sẽ không có, ta có thể tiếp cận. Xung quanh trại chính là một loạt các lều tròn bọc da hoặc nỉ, lều nào đặt san sát lều đó. Chỉ cần một mồi lửa là các lều đó sẽ nối tiếp nhau bắt lửa, ta không cần đánh cũng tự phá. Các lều đã bắt lửa thì kẻ địch chỉ còn hai lối ra vào. Trong khi địch hỗn loạn, ta tập kích hai đường máu giữa quả núi và khu rừng, ắt sẽ thắng lợi.”
Hà cho là kế hay, liền sai các huynh đệ gom mồi lửa. Lũ Nhai, Ninh còn nghi ngờ kế sách, nhưng Ô Di Hà đã quyết thì hai người họ cũng không dám trái lời.
Canh ba đêm đó, cả hội Ô Di Đạo, hai mươi ba người, chia làm hai đạo chính, chặn hai đường lớn ra vào của trại. Cổ Mạnh Ninh cùng năm nỏ thủ từ xa bắn tên tẩm bùi nhùi phóng hỏa, trúng cả ba trại chính. Khi quân Hung Nô ra dập lửa thì đã quá muộn.
Ở phía xa, Kiều Sinh Nhai chỉ huy các đồ đệ khua chiêng múa trống, khuếch trương thanh thế, chỉ có năm người mà địch tưởng như hàng chục quân Kim chính thống ứng cứu. Quả nhiên, quân Hung Nô trúng kế, tản ra hai đường mà bỏ chạy.
Trong cơn hoảng loạn, lính Mông Cổ chen chúc vào lối nhỏ, bị toán quân của Ô Di Hà và Kiều Sinh Nhai mai phục sẵn, giết tất thảy năm chục người ngựa. Ô Di Hà chỉ mất tổng cộng năm binh sĩ.
Ô Di Hà thu thập được bao nhiêu chiến khí, lương thực, hội quân lại với Kiều Sinh Nhai và Cổ Mạnh Ninh. Lũ Nhai, Ninh thấy Thừa Lân còn trẻ mà thông minh, có mưu kế, không ghen tị mà thấy bội phục ba bốn phần.
Chủ trại Mông Cổ là Thốc Mãn Lai, nhân thời cơ hỗn loạn mà dắt hai kỵ binh thân tín men đường mòn phía Nam bỏ trốn. Ai ngờ đi một đoạn, tới gần rừng tùng, hai kẻ đã ám phục sẵn trên ngọn cây cao nhảy xuống, một chém giết chết hai kỵ binh đi cùng.
Thốc Mãn Lai vội vàng quay ngựa lại thì thấy hai kẻ mặc áo choàng da hươu, rõ ràng là người Nữ Chân. “Ai?” Hắn hỏi.
Người có thân thể cao lớn hơn đáp, “Ngươi sắp chết rồi, không cần biết tên bọn ta.”
Kì thực, hai người mai phục họ Thốc chính là Hoàn Thừa Lân và Ô Di Đạo. Thừa Lân đã tiên liệu chủ trại của quân Mông sẽ theo đường nhanh nhất phóng về Liêu Dương để tẩu thoát, y rằng ứng nghiệm.
Thốc Mãn Lai mặc áo giáp phiến mỏng, tay cầm một cây kích cán đỏ son, nhuộm từ rễ cây thiến thảo, mũi kích đúc từ bạc sáng loáng, cán gắn lông đuôi ngựa hung. Ô Di Đạo nhận ra cây kích đó, mới hô lớn, “Đó là Huyết Tiễn Kích của Chu Nhậm. Tên tướng quèn nhà ngươi sao dám cướp lấy, dùng đôi tay bẩn thỉu của ngươi vấy bẩn nó?”
“Chặn đường Thốc Mãn Lai mà chỉ có hai người, quả thực là hôm nay muốn chết rồi.” Thốc Mãn Lai múa kích, động tác đơn giản nhưng nhuần nhuyễn. “Ta chính là em trai của Thốc Mãn Quần, chó săn tiên phong của Húc Đồ Cung! Ngươi là hạng tôm tép nào mà dám chặn đường ta?”
Đạo ngẩng mặt lên trời, cười lớn. “Trông nhà ngươi dong ngựa phủi áo, ta cứ tưởng gặp phải vĩ nhân nào cơ! Hóa ra chỉ là hạng tôm tép. Phó tướng của phó tướng của phó tướng mà cứ ra vẻ như Nhạc Phi sống lại!”
Thốc Mãn Lai giận tím mặt, múa kích thúc ngựa xông vào chém Ô Di Đạo. Hắn đinh ninh hắn trên lưng ngựa, hai kẻ kia chỉ đi chân trần, dù có hai đấu một hắn cũng có lợi thế rõ ràng. Hoàn Thừa Lân tay nắm một vốc cát, đợi ngựa tiến lại gần thì ném vốc cát đó vào mắt ngựa. Ngựa bị hoảng hồn, đổi hướng, kích của Mãn Lai không tới được Ô Di Đạo. Nhân thời cơ đó, Đạo vật Mãn Lai ngã khỏi lưng ngựa. Đạo lấy đại đao chém Lai, nhưng Lai đã lộn hai vòng tránh được.
“Nghĩ giết ta mà dễ vậy sao?” Lai nói. “Ta không cần ngựa để đánh bại hai kẻ vô danh các ngươi.”
“Ngươi nói nhiều quá rồi đấy,” Đạo cười khẩy. “Giỏi thì tiếp chiêu!”
Ô Di Đạo mới xông vào. Mãn Lai giương kích trực chiến, thì bỗng dưng trước mặt hiện ra ảo ảnh, như thể gió lớn, cát bụi nổi lên ngay trước mặt. Mãn Lai kinh ngạc không biết gió từ đâu ra, dù cho xung quanh hắn chẳng cảm thấy nhiệt độ thay đổi. Thực tình, Hoàn Thừa Lân đã áp sát hắn, múa Kinh Vân Ảnh, tạo ra ảo ảnh đánh lạc hướng.
Kinh Vân Ảnh của Thừa Lân còn sơ cấp, nên chỉ vài giây Mãn Lai đã nhìn thấu. Gió bụi thực chất chỉ nổi lên xung quanh một đường thẳng bóng loáng sắc kim loại! “Ngươi!” Mãn Lai vung kích gạt lưỡi kiếm trước mặt, đẩy lùi Thừa Lân, nhưng ảo ảnh đã khiến hắn quên mất đòn đao của Ô Di Đạo.
Đạo vung đao, nhưng Mãn Lai chẳng phải tay vừa. Hắn giương kích đỡ được đòn đao. Thừa Lân tung kiếm bên mạn sườn, nhưng Mãn Lai thúc cán kích phòng bị. Một mình hắn múa kích, dù Đạo và Lân cùng nhau liên hợp nhưng hắn vẫn đỡ được mười hiệp. Mọi đòn đỡ của Mãn Lai dù ở thế bất lợi vẫn đều dồi dào nội công, Đạo và Lân dùng hết sức bình sinh cũng không thể công phá.
Thừa Lân biết không thể giằng co vậy mãi, bèn giả đò loạng choạng một bước. Mãn Lai mắc bẫy, đâm kích tiến công. Nào ngờ bộ pháp Thừa Lân bắt chước thuấn bộ của Ô Di Hà, khoan thai dễ dành né tránh. Mãn Lai giật mình nhận ra sai lầm thì Ô Di Đạo đã áp sát từ sau lưng.
Đạo vung đao lần nữa. Đầu Mãn Lai đứt làm đôi. Hắn ngã sấp mặt xuống đất, máu xối ra như đài phun nước.
Đạo cắt đầu của Mãn Lai ra mang về làm chiến lợi phẩm, tay kia cầm lấy Huyết Tiễn Kích từ tay Lai. Xong xuôi hắn nói với Thừa Lân, “Thừa Lân, em quả thực thông minh, chưa thực chiến mà như đã vào sinh ra tử cả chục lần. Năm huynh đệ ta cùng trợ giúp lẫn nhau, có khi Húc Đồ Cung cũng chẳng phải đối thủ đâu!”
Thừa Lân từ tốn đáp, “Anh quá khen. Kì thực võ công của em so với Húc Đồ Cung hẳn còn cách xa nhau lắm.”
Đạo cười ha hả. “Việc đó cứ lo gì vội? Ta còn nhiều thời gian chuẩn bị trước khi gặp Đồ Cung. Ta cứ phải ăn mừng chiến thắng hôm nay đã. Giờ hai ta về, ta sẽ cho đệ chiêm ngưỡng tuyệt kĩ vo gạo, nướng hươu của ta. Người ta không gọi ta là đệ nhất đầu bếp Thiết Lĩnh không vì lý do gì cả đâu.” Chưa một ai gọi Ô Di Đạo là đệ nhất đầu bếp Thiết Lĩnh cả.
Thừa Lân mong lời của Đạo thành sự thực, bởi chàng cho rằng bản thân mình cần ít nhất năm, mười năm nữa để bắt kịp trình độ của Đồ Cung.
Tuy nhiên, duyên phận sẽ sắp đặt cho Hoàn Thừa Lân và Húc Đồ Cung chạm trán nhau sớm hơn chàng định liệu. Bởi cách đó vài trăm dặm, một trận chiến kịch liệt cũng đang diễn ra tại ấp Trường Chinh, quận Hoành Vĩ, thành trì cuối cùng của Kim triều tại Liêu Dương.
1. Huyết Tiễn Kích: Huyết Tiễn Kích là cây trường kích mũi bạc của Chu Nhậm. Đây là một thanh kích nung chất lượng cao, đao kiếm thông thường va chạm phải không những không gây tổn hại cho trường kích mà còn có thể gây sứt mẻ. Kiếm vừa bền vừa đủ nhẹ, thích hợp ra đòn nhanh và đổi hướng liên tục, nhưng khiến đối thủ dễ dàng đỡ được và điều hướng tấn công hơn.
2. Đắc Kỷ phái: Viết sau đi, đang lười...
0 Bình luận