Tập 01: Đại Kim bên bờ diệt vong
Chương 07: Chuyện tộc Dã Nhân
1 Bình luận - Độ dài: 3,136 từ - Cập nhật:
Hà và Lân hai người một ngựa băng qua vạt rừng thăm thẳm. Đường đêm tối mịt mù, lá cây che kín lối, nếu không phải vì Ô Di Hà đã băng qua cánh rừng này không biết bao nhiêu lần, lại thông thạo phương pháp định hướng bằng sao trời thì hắn cũng khó mà định vị được.
Sau một hồi di chuyển, hai người họ tới trước một ngôi chùa nằm giữa rừng. Cây cối mọc um tùm giữa các khe nứt trước bậc thềm, các bức tượng đặt ngoài sân chùa đều bám bụi kín mít. Dù cho có vẻ như ngôi chùa đã bị bỏ hoang chẳng ít lâu, xung quanh vẫn cảnh sắc vẫn vô cùng tĩnh mịch, nghiêm trang.
Thừa Lân cột con ngựa của mình bên một gốc cây, đi bộ xung quanh, vừa đi vừa ngắm nhìn kiến trúc của ngôi chùa. “Cột trụ đều làm từ gỗ quý, tượng lại đúc từ nham thạch. Nơi này quả thực đáng một gia tài. Thật đáng tiếc không còn ai lui tới.”
Ô Di Hà mới tiến lại gần, trong giọng có phẫn uất. “Trước nơi đây là đền thờ tổ vật Nữ Chân, nhưng đến thờ vua Hi Tông, vua lại tôn thờ Hán học, lại dùng hết ngân quỹ vào các công trình Phật pháp xa hoa, nên mới có nhà chùa này ở đây. Vua bên ngoài thì tôn sùng Phật giáo, nhưng lại ham thích dùng hình ngục, sát hại dân chúng, vậy thì chẳng trách sao dân người ta oán thán, không tin vào lời răn dạy của Phật pháp? Người Thiết Lĩnh chúng tôi ba đời nay vẫn thờ vật tổ. Tổ vật của thần linh sẽ cho chúng ta sức mạnh, còn ăn chay thanh tịnh thì cũng vẫn thành nấm mồ xanh cỏ thôi. Sang đời vua Thế Tông, ta thấy cấm du nhập Phật pháp là đúng lắm.”
Gia đình Thừa Lân vốn sùng Đạo giáo, nhưng vì thời loạn mà phải dùng đến đao kiếm. Đạo giáo và Phật giáo tuy nhiều khác biệt, nhưng việc tôn trọng các tôn giáo khác thì cả hai đều có giảng giải. Thừa Lân vốn nhận thấy nhiều ưu việt trong các quan niệm du nhập từ nước Tống phía Nam. Vả lại vua Thế Tông dù một mặt ngăn cản Hán hóa, nhưng vẫn mở đường ngôn luận cho Đạo giáo và Nho giáo. Giờ đây thiên hạ loạn lạc, xã tắc lung lay, dân chúng cần cơ sở để tịnh tâm không giao động, cần quy tắc để hành xử đúng mực, cần đạo đức để ngăn bản thân làm chuyện xằng bậy. Tổ vật giáo không răn dạy ai điều đó cả.
Dù nghĩ trong đầu là vậy, nhưng Thừa Lân giữ im lặng. Ngay lúc này cậu không muốn tranh cãi với người anh lớn của mình.
“Ta đưa em đến đây không phải để ngắm cảnh,” Dứt lời, Hà rút thanh đại đao hắn giắt sau lưng ra. Thanh đao của hắn mang tên Bán Nguyệt Đao, lưỡi đao cong tựa hồ lưỡi liềm, với kẻ đủ khéo léo và dồi dào nội công, có thể bóp chết kẻ địch như một con trăn xiết mồi. “Em liệu đã bao giờ nghe qua về thuấn bộ của Tảo Y Giáo chưa?”
“Em chưa nghe tới.”
“Cũng phải thôi. Tảo Y Giáo chỉ là một giáo phái nhỏ, kì thực công pháp không có gì nổi trội. Nhưng em có biết tại sao giáo phái này tồn tại trước cả khi nước Liêu ra đời và vẫn tồn tại kể cả sau khi nước Liêu sụp đổ không?”
Thừa Lân lờ mờ hiểu ra được ý của Ô Di Hà. “Là vì bộ pháp?”
“Phải.” Ô Di Hà lấy chân đạp lên thân cây, nhanh chóng bật cao lên một thân cây đối diện, rồi cứ thể trong chục bước đã leo lên tới ngọn cây cao. Thêm một chục bước nữa, Ô Di Hà lại tiếp đất nhẹ bẫng. Kĩ năng di chuyển thượng thừa đó là điều mà không một người phàm nào được chứng kiến trong đời, chứ chưa nói tới việc làm được. “Bộ pháp phi phàm thì sẽ giữ được mạng.”
Hà chỉ mũi đao về phía Thừa Lân mà rằng, “Rút kiếm ra đi, Hoàn đệ. Ta sẽ cho em thấy sự khác biệt giữa ta và em.”
Thừa Lân cũng rút Không Ngưng Kiếm ra, đứng một góc chùa, vào thế phòng thủ sẵn sàng.
Ô Di Hà lăm lăm thanh đao, tiến về góc đối diện, miệng nói rằng, “Ta ra một chiêu, em ra một chiêu. Không nhiều lời nữa.” Nói rồi, xông vào lập tức.
Thừa Lân chớp mắt đã thấy Ô Di Hà thu hẹp khoảng cách chỉ còn cách vài gang tay, thanh đao phản quang ánh trăng lấp lánh. Cậu vội vàng né tránh đòn tấn của Hà, tung đường kiếm thẳng đứng theo chiêu thức mình vừa học trong sách.
Ô Di Hà chỉ di chuyển được hai bước, đường kiếm của Thừa Lân đi vào thinh không. “Chậm quá,” Hà nói.
Hà thúc đốc đao vào lưng Thừa Lân, khiến cậu chàng loạng choạng hai bước. Thừa Lân xoay mình, vẽ một đường kiếm tuyệt mĩ, nhưng một lần nữa Ô Di Hà đã lùi ra khỏi vòng nguy hiểm.
“Chậm quá,” Hà nói, tiến tới lần nữa.
Thừa Lân biết mình phải làm một điều gì đó khác biệt. Cậu quan sát bộ pháp của Hà, rồi sao chép tương tự, tránh được lưỡi đao của Hà một lần nữa. Thừa Lân sử dụng chiêu thức nhanh nhẹn, tinh gọn nhất mà mình biết, nhưng đường kiếm của cậu lần này bị thanh đao lưỡi liềm của Hà chặn đứng, lưỡi kiếm vướng phải thân đao như cá mắc câu.
“Khá lắm. Nhưng vẫn chậm quá,” Hà ung dung nói.
Thừa Lân lui lại, tiến tới lần nữa với bộ pháp nhanh nhất có thể. Cậu bỏ qua mọi công lực, chỉ tập trung vào tốc độ. Nhưng chỉ với một cú bật nhảy, Ô Di Hà lập tức biến mất khỏi tầm nhìn của cậu.
Không thể chạm tới!
Ô Di Hà xuất hiện phía sau lưng Thừa Lân, áp đốc đao lên cổ cậu. “Đệ đã mất mạng.”
Cả hai cất vũ khí, rồi Thừa Lân chắp tay cúi đầu nghiêm cẩn trước mặt Ô Di Hà, trong đôi mắt cậu chứa đầy sự nể phục. “Quả thực em còn phải học tập anh nhiều lắm. Em xin mạn phép hỏi cảnh giới của anh giờ đã ở tầng thứ mấy?”
Hà đáp, “Ta đã đạt tới tầng thứ ba, nhưng em hoàn toàn có thể học tập tinh hoa thuấn bộ khi khai mở cảnh giới thứ hai. Em bây giờ tưởng như khoảng cách giữa chúng ta rất xa, nhưng trong đời ta đã gặp nhiều võ giả rồi, cũng không ít những võ hiệp trẻ tuổi. Ta đã thấy cách em học hỏi ta chỉ qua việc quan sát mà thôi. Nếu ta không nhầm, chỉ một năm nữa thuấn bộ của em sẽ vượt qua ta.”
“Anh đang đánh giá cao em quá.”
“Bước lại các bước em vừa làm khi tấn công ta cho ta xem.”
Thừa Lân làm theo. Cử động chân của Thừa Lân tuy tinh giản nhưng tốc độ vẫn chưa lớn.
“Ta mất hơn nửa năm trởi để có thể di chuyển như vậy, và em quan sát ta một lần và làm theo được. Giờ em chỉ cần biết điều khiển nguyên khí trong cơ thể thôi là sẽ thuần thục thuấn bộ sơ nhập.”
Ô Di Hà có chút hối hận, cho rằng nói những lời tâng bốc này có thể khiến người em của mình tự phụ, nhưng Thừa Lân chỉ chăm chú lắng nghe, trên nét mặt không chút thay đổi.
Hà mới tiếp lời, “Ta không làm gì khoa trương cả, chỉ đơn giản tập trung nội công vào hai bàn chân. Nếu muốn tăng cường khả năng vận dụng nội công, luyện thuấn bộ là một cách thức vô cùng hiệu nghiệm. Nó sẽ giúp em học cách tập trung nội lực của mình vào những bộ phận quan trọng và điều khiển dòng chảy của nguyên khí theo ý muốn. Đó chính là tiền đề để em có thể đột phá lên cảnh giới thứ hai.” Nói đoạn, ngồi xuống nghỉ chân, lấy bầu nước trong người ra uống. “Tảo Y Giáo không nhận thêm đệ tử ngoại môn, đệ tử nội môn giáo phái người vì xả thân cứu nước, người vì cầu thị võ học, nên lưu lạc khắp bốn phương. Nhưng Giáo chủ Tảo Y Giáo vẫn đang trong thành Dinh Khẩu. Vậy nên chúng ta mới cần di chuyển thật nhanh. Ta sẽ truyền thụ lại cho em tất cả những gì ta tiếp thu được. Nếu từ giờ tới Dinh Khẩu mà em thuần thục mọi bộ pháp cho nội công tầng thứ nhất, như vậy là đủ tư cách bái kiến Giáo chủ.”
“Vậy anh muốn em bắt đầu luyện tập thuấn bộ bao giờ?”
“Ngay bây giờ.” Hà bứt một ngọn cỏ mọc giữa các kẽ hở giữa sân gạch lên. “Đây là phi tiêu của ta.” Hà xòe lòng bàn tay, để lộ ra ba ngọn cỏ cứng cáp. “Trên; giữa; dưới. Em hãy làm thế nào né được cả ba cùng một lúc.”
***
Ngay lúc hai người Lân, Hà đang miệt mài tập luyện, cách đó tám trăm dặm, ở Mệnh Cô, châu Hồ Lý Cải, giáp ranh giữa nước Kim và miền viễn Bắc xa xôi hẻo lánh, một chuyện lạ lùng xảy ra. Vốn Hồ Lý Cải đại đa số là người Dã Nhân sinh sống, chẳng thuộc phạm trù quản lý của triều đình, không theo tập tục trung ương ban bố, không có quan thái thú cai trị, chỉ có duy nhất một điều là vẫn nộp thuế cho triều đình thông qua tù trưởng A Cáp Xuất. Dã Nhân Nữ Chân là một trong ba loại người lớn của người Nữ Chân. Nữ Chân phân thành ba loại người lớn là: Kiến Châu, Hải Tây và Dã Nhân. Trong đó, khu vực của Dã Nhân Nữ Chân là ở cực bắc, bao phủ lưu vực trung du sông Tùng Hoa, Hắc Long và Ô Tô Lý , phía đông đến biển Ngạc Hoắc Thứ bên bờ Hồ Lý Cải và đảo Khố Hiệt.
Đại bộ phận nước Kim được điều hành bởi Kiến Châu Nữ Chân, vốn từ xưa nay đều không có quan hệ tốt đẹp gì với người Dã Nhân. Vào thời vua Hi Tông, vua sai mang tăng lữ và đạo sĩ vượt sông lên miền Đông Bắc truyền đạo, A Cáp Xuất cũng cự tuyệt. Nói về chuyện xung đột giữa nước Kim và Hung Nô, suốt mười năm qua A Cáp Xuất chưa một lần gửi viện binh. Xuất tin rằng Hồ Lý Cải xứ Đông Bắc lạnh lẽo xa xôi, tài nguyên khan hiếm, quân Hung Nô tất chẳng thèm nhòm ngó, nên không việc gì phải giúp đỡ triều đình cũng là lẽ đó. Kể cả khi quân Hung Nô đánh đến Thiết Lĩnh, bắt đầu xâm lấn vào đất phiên thuộc của người Dã Nhân, A Cáp Xuất vẫn chẳng mảy may động binh.
Thứ nam của A Cáp Xuất là A Cáp Công theo lời cha lên rừng viễn Bắc, tìm kiếm cây bạch dương Cảo Liên quý hiếm để lấy gỗ đóng thuyền săn cá voi. A Cáp Công có thể trạng vô địch, trời lạnh đến đóng băng cũng không cảm thấy, ấy là do tuổi nhỏ chết hụt mà thành. Vốn dĩ A Cáp Xuất sinh thành năm người con, thì hai người chết yểu từ tấm bé, chỉ có con trai trưởng là A Cáp Toại và con gái thứ A Cáp Hoan. Tới A Cáp Công tuy sống sót nhưng từ nhỏ mặt mũi đã tái mét, gầy nhom, hay ốm yếu tay chân không làm được việc gì. A Cáp Xuất thỉnh không biết bao nhiêu thầy cúng, thậm chí cho người xuống miền Nam mời đạo sĩ từ kinh thành lên một chuyến cũng không sao cải thiện được sức khỏe cho con.
Một ngày nọ, một thuật sĩ chu du từ Khố Man* phương tây xa xôi, ghé qua thị trấn Mệnh Cô, thủ đô của Hồ Lý Cải, nghe sự về các nam tử A Cáp gia mới ngỏ ý muốn gặp. Vừa gặp A Cáp Xuất, thuật sĩ mới nói, “Ta đi lang thang bốn phương ghé qua nơi đây, thấy trong trấn này có tụ khí bất thường, lại hay trong nhà tù trưởng có chuyện chẳng lành, nên muốn xem liệu chút tài mọn của ta có thể giúp đỡ được không?”
*Cumans-Kipchak là một liên minh của người Turk ở vùng thảo nguyên Á-Âu, tồn tại cho tới khi bị chôn vùi dưới vó ngựa Hung Nô vào thế kỷ 13.
Thuật sĩ này bên ngoài mặc áo giáp màu đỏ mận, trong mặc áo nhung dệt hoa văn kim tuyến, đầu đội một chiếc mũi có hai bên cong vênh, trông như một thỏi vàng treo trên đầu. Các trang phục này A Cáp Xuất chưa từng thấy. Thuật sĩ bỏ mũ ra, xem xét xung quanh ngôi nhà, rồi chỉ ra đằng sau bức tường mà hỏi, “Nhà tù trưởng có phải đang đặt tổ vật gia tộc ở đó?”
A Cáp Xuất lấy làm kinh ngạc. Tổ vật gia tộc là nguồn sinh khí của A Cáp gia, vốn tổ vật được giấu kĩ càng để không kẻ nào nhòm ngó, nhưng thuật sĩ vừa mới tới đây đã chỉ ra ngay được. Xuất đáp phải, thuật sĩ mới bảo, “Có điều dị thường, ta cần xem xét.”
Xuất mới đồng ý, bảo người nhà khênh tổ vật ra. Tổ vật A Cáp gia mang hình hài con cú mang đầu ưng được đặt trên một thần trụ, tất cả đều làm từ gỗ bạch dương. Thuật sĩ đi qua lại mấy vòng, mới rút từ trong áo nhung ra một cây phất trần, gõ mạnh đôi lần vào thần trụ. Một dòng công khí màu vàng hoàng kim bắn ra từ cây phất trần, kết nối với thần trụ suốt nửa canh giờ mới thôi. Xong xuôi, thuật sĩ mới bảo, “Thần trụ của tù trưởng bị ách tắc nguyên khí. Ta vừa đả thông, giờ sinh khí gia tộc đã dồi dào trở lại rồi. Từ nay về sau thì mọi sự tới đâu thì đều dựa vào phúc lớn nhà tù trưởng, vậy nên hãy để ý cúng bái tổ vật hàng năm, năm nào cũng không thể quên lấy thịt cá voi làm lễ vật.”
A Cáp Xuất đang bán tín bán nghi thì bất chợt vợ ông chạy ra, dắt theo đứa bé A Cáp Công. Xuất nhìn lại thì thấy Công da dẻ hồng hào, không còn bệnh tật gì nữa, thì mới mừng ra mặt, muốn cảm ơn thuật sĩ thì kẻ nọ đã đi mất rồi.
A Cáp Công lớn lên, thể chất phi phàm, hai tay không bê được nửa tấn gỗ, lại luyện tập theo võ công dưỡng sinh A Cáp gia, nên không bao giờ mắc bệnh, nhiễm lạnh, hàng ngày đều cởi trần làm việc dưới cái lạnh âm độ. Thế nên A Cáp Xuất tin tưởng giao cho chàng mọi công việc ở miền viễn Bắc.
Chuyến này Công đi cùng với người trong bộ tộc, cả thảy mười bảy người, tưởng như không có chuyện gì khác thường. Nhưng khi đang đốn củi, bất chợt bọn Công nghe tiếng vó ngựa từ bên kia bờ rừng. Cả bọn cùng nhìn nhau kinh hãi. Trước giờ người Hồ Lý Cải chưa bao giờ đi quá cánh rừng miền viễn Bắc. Nơi đó lạnh lẽo khôn cùng, hàng tháng trời mặt trời không mọc, đêm về nhiệt độ kéo xuống cực hàn, người thường khó sống nổi, lại tồn tại những quái thú như vượn chân to hay Thiếu Nữ Tuyết. Giờ lại có kẻ từ phương đó đi xuống, không biết là chuyện xấu hay tốt.
Mười bảy người trong tộc đều đồng loạt rút rìu ra, nhưng chỉ vừa nhìn thấy bóng người ngựa từ xa thôi thì bọn họ giương cung lên bắn, ai nấy đều dính tên. Mũi tên của họ đều ẩn khí lạnh trong đó, kẻ nào trúng phải đều da thịt ê buốt, bắp cơ tê cứng, phản ứng trở nên chậm chạp. Đặc biệt, mũi tên của kẻ đứng giữa được truyền khí lạnh công lực ít nhất đã đạt tới tầng thứ ba, kẻ trúng phải buốt tới tận gân cốt, trong nháy mắt đứng im như tượng.
A Cáp Công giật mình. Trong số này có cao thủ!
Bản thân Công cũng trúng tên nơi bắp tay, nhưng khí lạnh với anh ta là vô dụng, nên anh nhanh chóng bứt tên ra khỏi người. Anh soi kỹ mũi tên, mới nhận ra rằng đầu của chúng đều được gọt cùn đi, như thể cố tình không gây sát thương cho mục tiêu.
Công rút một chiếc rìu vàng hai thước, nặng nửa tấn ra, vào thế tấn phòng thủ. Kẻ cầm đầu dong ngựa lại gần khoan thai, cho tới khi tới khoảng cách Công có thể nhìn rõ, mới khoát tay ra lệnh cho toàn quân dừng ngựa. Ở sau lưng hắn, kẻ nào kẻ nấy đều mặc áo choàng màu xanh than, dàn thành trận phải tới ít nhất trăm người.
Kẻ đi đầu mặc chiếc chiếc áo choàng nhung thêu những họa tiết đường tròn ba màu lam, lục, vàng như đuôi một con công. Hắn nói bằng tiếng Dã Nhân, dù giọng rất khó nghe và nhiều từ không chính xác nhưng A Cáp Công vẫn có thể hiểu, “Ta không có ý gây hấn với ngươi. Hãy chỉ cho ta đường đến gặp Mộc Hoa Lê.”
Các kỵ binh ở phía sau đều giơ nắm đấm lên trời mà hô, “Trả thù Mỗ Đế Lạp**! Trả thù Cơ Phụ**!”
**Mỗ Đế Lạp là tên phiên âm Hán Việt của Mstislav, ở đây là Đại Hoàng tử Mstislav III của Kiev. Cơ Phụ là tên phiên âm Hán Việt của Kiev.
Kẻ đi đầu tiếp lời, giọng phẫn uất, “Thành Cát Tư Hãn đã giết chết cha ta. Hãy tránh sang một bên. Ta tới đây để báo thù.”
1. Bán Nguyệt Đao: lười quá, viết sau.
1 Bình luận