Ngay từ đầu, Dorothy chưa bao giờ có ý định đến khu ổ chuột một mình.
Cô hiểu rõ rằng nếu rời xa Sibylla, cô sẽ hoàn toàn bất lực trong việc bảo vệ Công chúa—nếu sát thủ tấn công lần nữa như trước, mọi chuyện sẽ trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, trăm nghe không bằng một thấy—Dorothy nhận định rằng nếu muốn tìm cách hóa giải lời nguyền, thì để phù thủy tận mắt chứng kiến tình trạng của Sibylla sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ dùng lời nói để mô tả. Dorothy cũng không phải người giỏi ăn nói, nhất là khi phải giải thích những chuyện phức tạp như thế này.
Cơ hội gặp phù thủy ẩn dật kia không nhiều. Vậy nên, nếu đã có dịp, chẳng phải tốt hơn hết nên giải quyết mọi thứ trong một lần, bất kể cái giá phải trả?
Dĩ nhiên, Dorothy cũng thừa hiểu rằng đưa Sibylla đến khu ổ chuột là một hành động rủi ro không kém.
Khu ổ chuột là nơi thế nào? Một vùng đất vô pháp, nơi những kẻ xấu số lỡ đặt chân vào sẽ bị tước đoạt không chỉ tài sản, mà có khi còn mất cả mạng sống. Chẳng ai quay về từ đó mà nguyên vẹn.
Đưa một người phụ nữ yếu ớt đến đó, hơn nữa lại là một người mang trên mình lời nguyền kinh hoàng như Sibylla, chẳng khác nào tự sát.
Dorothy vẫn nhớ như in những cảnh tượng tàn bạo diễn ra trong những góc tối của khu ổ chuột—những điều mà người sống trên mặt đất chưa từng chứng kiến, cũng chẳng bao giờ muốn biết đến.
Nếu không vì thủ đoạn ám sát của sát thủ, dù Sibylla có phản đối kịch liệt thế nào, Dorothy cũng sẽ tự mình đến đó. Nhưng giờ đây, khi biết chắc rằng có kẻ đang nhắm đến mạng sống của Công chúa, cô không thể hành động liều lĩnh như trước nữa.
Vậy nên, Dorothy quyết định đưa Sibylla theo. Dù khu ổ chuột có nguy hiểm đến đâu, thì nó cũng không thể nguy hiểm hơn việc để Công chúa lại một mình trong tháp.
Và thế là, khi màn đêm buông xuống, một con ngựa xuất hiện trước Tháp Cao.
“…Con ngựa đó ở đâu ra?”
“Thần lấy từ chuồng ngựa gần đây.”
“Ngươi có ăn trộm nó không đấy?”
Giữa đêm khuya thanh vắng, một con ngựa cũng chỉ là một con vật, vậy mà chẳng hiểu sao Sibylla lại cảm thấy nó có gì đó bất an, như thể đang cố chống cự nhưng không dám biểu tình.
“Khi Công chúa của Orléans cần một con ngựa, ai mà dám từ chối chứ? Có khi họ còn vui vẻ tranh nhau dâng ngựa lên tận tay người luôn ấy.”
Nhìn vào vẻ bồn chồn của con ngựa, Sibylla đoán rằng nó chưa thực sự được chủ nhân của mình cho phép rời đi. Nhưng mặc kệ điều đó, Dorothy vẫn thản nhiên thắng yên cương, chìa tay ra, mời nàng lên lưng ngựa.
Sibylla chỉ khẽ thở hắt ra trước thái độ trơ tráo ấy—nàng cũng không rõ đó là một tiếng thở dài hay là một điều gì khác.
“Lên ngựa đi, Công chúa, thần sẽ lo phần cầm cương.”
“Ngươi biết cưỡi ngựa sao?”
Cưỡi ngựa không đơn giản như vẻ bề ngoài.
Loài ngựa vốn là những sinh vật ngang bướng và ích kỷ. Ngay cả những người thuần ngựa giàu kinh nghiệm cũng có thể lỡ chọc giận một con ngựa và bị nó đá chết ngay lập tức.
Sự cố kiểu đó không hiếm, chỉ là không phải ai cũng bận tâm đến việc ghi lại.
Đã vậy, cưỡi ngựa không chỉ là vấn đề giữ thăng bằng, mà còn đòi hỏi sự am hiểu và kỹ thuật điều khiển.
“Thần từng học qua rồi. Trước đây thần có nhiều dịp phải cưỡi ngựa hơn người nghĩ đấy.”
“Ra vậy—Kyaaah!?”
Trước khi Sibylla kịp nói hết câu, Dorothy đã nhấc bổng nàng lên lưng ngựa, rồi lập tức leo lên theo, nhanh chóng nắm lấy dây cương.
“Bám chặt vào, nếu không người sẽ bị ngã đấy.”
Sibylla sững người một thoáng. Nàng chợt nhận ra mình không biết phải bám vào đâu—bởi từ vị trí của người ngồi sau, chỉ có một chỗ duy nhất để bám vào.
“…”
Không còn lựa chọn nào khác, nàng chỉ có thể vòng tay ôm lấy Dorothy từ phía sau, tựa đầu vào lưng cô.
“…Ngươi có thấy khó chịu không?”
Bất ngờ, Sibylla hỏi Dorothy.
Vì đây là lần đầu tiên nàng có sự tiếp xúc cơ thể với một người khác kể từ khi bị nguyền rủa.
Trước đây, tất cả người hầu đều xa lánh Sibylla, không chỉ né tránh đụng chạm mà thậm chí còn chẳng dám nhìn thẳng vào mắt nàng.
Và bản thân Sibylla cũng chưa từng thấy cách đối xử đó có gì lạ thường.
Kẻ kỳ lạ không phải họ. Kẻ kỳ lạ là Dorothy.
Kẻ hành xử như thể lời nguyền này chẳng có ý nghĩa gì, như thể nó không đáng để bận tâm.
Đối với Sibylla—người đã chịu đựng ánh mắt ghẻ lạnh của thế gian suốt hơn nửa cuộc đời mình, Dorothy chính là một dị biệt.
Liệu cô ta thực sự không cảm thấy có chút nào khó chịu sao?
Không thấy ghê tởm sao, khi ở gần và bị chạm vào bởi một kẻ mang lời nguyền?
“Người thấy không thoải mái ở đâu sao?”
“Không, không phải ta, mà là ngươi…”
Nhưng trái với những lo lắng của Sibylla, Dorothy chẳng hề có chút biểu hiện nào của sự khó chịu. Cô chỉ đơn giản hỏi lại xem Công chúa có bất tiện nào không.
Bất chợt cảm thấy xấu hổ trước thái độ quá đỗi tự nhiên ấy, Sibylla chỉ siết chặt vòng tay quanh eo Dorothy hơn, rồi vùi mặt vào lưng cô.
***
“…Cơ mà, bộ đồ đó là sao vậy?”
“Thần mượn tạm bộ quần áo từ tủ trên tầng hai. Cưỡi ngựa mà mặc váy dài thì bất tiện, còn vào khu ổ chuột trong bộ đồ hầu gái thì chắc chắn sẽ thu hút nhiều ánh mắt không mong muốn.”
Một chiếc áo khoác kẻ caro màu be, cùng một chiếc mũ mang hơi hướng thám tử, thêm vào đó là một cái tẩu và kính một mắt chẳng biết lấy từ đâu ra.
“…Trước giờ đã từng có hầu gái nào ăn mặc như vậy chưa?”
Sibylla đánh giá bộ trang phục này vừa hợp lý lại vừa chẳng hợp chút nào.
“…À, nói mới nhớ, chúng ta nên sử dụng tên giả.”
“Tên giả?”
Sibylla tỏ ra thắc mắc trước lời đề nghị của Dorothy. Tên giả là sao?
“Thần không thể gọi người là ‘Công chúa’ khi ra ngoài được.”
“…Ngươi nói cũng phải.”
Việc Công chúa bị nguyền rủa đã là chuyện ai ai cũng biết ở Orléans, khu ổ chuột cũng không ngoại lệ.
Nếu có một bóng người bí ẩn khoác áo choàng, lại còn gọi người đi cùng là “Công chúa”, thì hậu quả ra sao chẳng cần nghĩ cũng biết.
“Tên giả… tên giả… nhưng ta không nghĩ ra cái nào hợp cả.”
Đến khi thực sự phải chọn một cái tên, Sibylla mới nhận ra trí tưởng tượng của mình hoàn toàn cạn kiệt.
Chẳng phải đặt tên giả cũng giống như đặt tên cho ai đó sao?
Nàng chưa bao giờ đặt tên cho chó hay mèo, chứ đừng nói đến con người, nên chuyện này nghiễm nhiên trở thành một việc khó nhằn hơn Sibylla tưởng.
“Vậy thần có thể đề xuất một cái tên không?”
“Cứ làm theo ý ngươi.”
Khác với Sibylla, Dorothy lại rất tự tin đưa ra ý kiến, như thể đã chuẩn bị sẵn một cái tên từ trước rồi.
“Ozma thì sao?”
“Ozma?”
Một cái tên lạ hoắc, không có nét ngoại quốc như Dorothy Gale, nhưng lại có cảm giác xa lạ khó tả.
“Nó có ý nghĩa gì không?”
“Không có gì đặc biệt cả. Chỉ là… thần nhớ đó là tên của một công chúa trong truyện cổ tích thần từng đọc hồi nhỏ.”
“Ah.”
Sibylla suýt quên mất sở thích kỳ lạ của nữ hầu này đối với truyện cổ tích.
“Truyện cổ tích à…”
“Nếu người không thích, thần có thể chọn một cái tên khác…”
Mặc dù bản thân Sibylla không mấy hứng thú với truyện cổ tích, nhưng—
“Không, Ozma cũng được.”
Nàng vẫn chấp thuận. Dù sao nó cũng chỉ là một cái tên tạm thời, dùng một lần rồi vứt bỏ.
So với mấy cái tên như ‘Công chúa gì đó’ hay ‘Cô gái khoác áo choàng’, thì Ozma ít nhất vẫn nghe giống một cái tên thực sự hơn.
***
Người Orléans nói chung không chuộng hoạt động sau khi mặt trời lặn.
Một phần là do xu hướng tôn thờ mặt trời của họ, nhưng ngoài điều đó ra, thì làm việc vào ban ngày và nghỉ ngơi vào ban đêm vốn đã là bản năng ăn sâu vào cơ thể con người từ lâu, trước cả khi nền văn minh được hình thành đúng nghĩa.
Về bản chất, con người và hầu hết các loài động vật đều là sinh vật hoạt động ban ngày. Nếu không thể nhìn rõ, thì làm sao có thể sinh hoạt hay di chuyển?
Trừ khi tiến hóa thành loài săn mồi về đêm để tránh kẻ thù hoặc tận dụng thời điểm con mồi mất cảnh giác, thì đa phần các sinh vật đều thích hoạt động vào ban ngày hơn là ban đêm—và con người cũng không ngoại lệ.
Ngay cả dân cư khu ổ chuột Hyperion, những kẻ có xu hướng hoạt động về đêm nhiều hơn so với các khu vực khác, thì thường sau 3-4 giờ sáng cũng sẽ quay về nhà để ngủ một giấc đàng hoàng. Những lối sống hoàn toàn về đêm thực chất là rất hiếm.
“Gì chứ, ngươi mong ta mở cửa vào khoảng thời gian nghỉ ngơi quý giá của mình để tiếp đón những vị khách vô duyên à?”
Và phù thủy là một trong số ít những người thực sự sống về đêm.
“Vẫn giữ thói quen ngủ ngày cày đêm à?”
“Dạo gần đây, ta cứ liên tục gặp phải mấy gương mặt không muốn nhìn thấy. Biết thế ta chuyển đến Lombardy sống cho rồi.”
Ngay cả trước khi Dorothy quen biết phù thủy, cô ta đã là một con người hoạt động về đêm.
Không phải vì công việc bận rộn hay chứng mất ngủ, mà đơn giản là một kẻ thích ngủ vào ban ngày và sống về đêm theo ý mình.
“Tôi biết cô vẫn thức vào giờ này.”
“Nếu ngươi đến muộn hơn hai, ba tiếng thì ta đã không phải nhìn thấy cái mặt của ngươi rồi.”
Dù Dorothy và Sibylla đã vượt một quãng đường xa đến đây, phù thủy vẫn chẳng buồn che giấu vẻ khó chịu khi phải tiếp đón hai vị khách ngoài mong đợi, khiến Dorothy thầm nghĩ:
‘Vẫn chẳng thay đổi gì cả…’
“Vậy, đến đây vì việc gì? Ngươi chưa thể nào hoàn thành nhiệm vụ sớm như vậy được.”
“Không phải tôi, mà người này mới là người có việc. Cô ấy cũng có thể giải thích chi tiết hơn.”
Người khoác áo choàng đứng sau lưng Dorothy—kẻ mà danh tính vẫn chưa được tiết lộ.
“Ô hô… Không ngờ lại được gặp người trong lời đồn ở đây.”
Nhưng phù thủy ngay lập tức nhận ra thân phận thật của nàng.
“Công chúa Sibylla. Một sự hiện diện tôn quý lại đặt chân đến nơi thấp kém này… À không, phải nói là một kẻ thấp kém lại được diện kiến một sự hiện diện tôn quý chứ.”
Một người là mục tiêu được bảo vệ.
Một người là mục tiêu bị truy sát.
Chủ thể của hai yêu cầu trái ngược nhau.
“Vậy Công chúa đến đây vì chuyện gì… À, nhưng trước hết ta nên tự giới thiệu bản thân đã.”
Nhìn thấy Công chúa mà cô từng nghĩ rằng sẽ không bao giờ rời khỏi Tháp Cao, giờ đây lại đứng trước mặt mình—ở một nơi ngoài tháp, phù thủy cười khúc khích.
“Ta là… ừm, nên gọi ta là gì nhỉ? Phù Thủy Tốt chăng? Còn tên nữa… được rồi.”
Sau khi tự lẩm bẩm về những thứ mà một kẻ đã sống lâu năm như mình sẽ còn được chứng kiến, cô thản nhiên nói tiếp:
“Gọi ta là Glinda đi. Glinda—Phù Thủy Thiện Lành.”


1 Bình luận