Bất chợt, ta nhớ lại một chuyện xảy ra đã khá lâu. Thuở đó, trong một lần ngao du bốn phương, ta hữu duyên gặp được một vị hạnh đầu đà. Hắn chỉ là một người phàm nơi cõi tục, chẳng có phép thuật thần thông, cũng không mang theo pháp khí bảo hộ.
Ấy vậy mà khi cơn dịch bệnh quái ác lan tràn khắp chốn, khiến dân chúng lầm than kẻ trốn người chạy. Vị hạnh đầu đà kia lại chẳng màng hiểm nguy tự thân đi vào tâm dịch, cặm cụi ngày đêm chế thuốc, cứu chữa cho ngàn vạn chúng sinh giữa cơn khổ nạn.
Khi dịch bệnh qua đi, dân chúng khắp vùng quỳ rạp dưới chân hắn, mắt lệ nhòa mà gọi: “Phật sống! Người chính là Phật sống giáng thế cứu độ chúng sinh!”
Khiến ta bất ngờ là vị hạnh đầu đà chỉ khẽ lùi lại, rồi quỳ xuống trước đám đông, đôi bàn tay gầy guộc của y chắp trước ngực, giọng từ hòa mà kiên quyết: “Mô Phật, xin các thí chủ đừng gọi ta là Phật. Ta chỉ là kẻ phàm tục, nào đủ công đức để nhận lấy cái danh này!”
Nói đoạn, ta lại nghe hắn tự thở dài nhỏ giọng: “Nhận mình là Phật, tức chưa phải Phật [1].” Lời này hắn cũng chẳng phải nói cho những dân lành kia nghe, hắn là đang tự răn chính bản thân mình.
Khi đó ta còn chưa hiểu câu nói sau cùng của y cho lắm. Mãi đến hiện tại, khi bản thân lần nữa đặt chân vào Cung Thiềm, cảm nhận được sự sợ hãi tự sâu trong lòng dâng lên, ta mới phần nào hiểu ra.
“Phá Thần trong miếu dễ, phá Thần trong lòng mới khó [2]. Bản thân là Thần, lòng lại sợ Thần…”
Ta lặng lẽ tự vấn, tiếng lòng như giọt mưa rơi trên mái ngói cũ, lặng thầm mà dai dẳng.
Ta chợt nhận ra, không biết từ lúc nào, tự ta đã biến tâm hồn mình trở thành miếu thờ cho những vị "Thần" khác? Để rồi ý chí phấn đấu cũng dần hao mòn, tựa tấm vải lụa bị gió thổi rách, đủ để kẻ khác nhìn vào và hình dung, nhưng lại chẳng thể giữ nổi “vẻ đẹp vốn có” như thuở ban đầu.
Giờ khắc này, ta tự thấy bản thân chẳng khác chi chúng sinh nơi trần thế. Họ ngày đêm quỳ lạy cầu nguyện dưới chân tượng Thần, mong được ban ơn, phát lộc. Nhưng trong lúc ấy, đôi tay họ, ý chí họ lại vô thức buông xuôi, chẳng hề cố gắng tự giành lấy thứ mình cầu.
Và ta, khác gì họ đâu?
Như kẻ lạc giữa sương mù, bỗng nhiên tìm thấy sợi dây dẫn lối, ta tự kéo tâm thức của mình trở về từ mớ hỗn loạn. Lòng ta chợt nhẹ nhõm như cánh hoa sen được gột sạch bụi trần, tinh thần trong giây phút này thanh sảng đến lạ thường. Nỗi sợ kia tựa thủy triều vừa dâng đã rút, cuốn hết mọi u ám về nơi đáy biển sâu.
Trở về với thực tại, ta thở dài một hơi lấy lại tinh thần. Ở phía đối diện, không biết từ bao giờ đã có một tiên nữ cầm ô đứng đó chờ sẵn. Dáng nàng mảnh mai, dong dỏng như nhành liễu non đùa trong gió sớm, mái tóc buông hờ ngang eo, đen nhánh tựa dòng suối nhỏ chảy về ngàn.
Chẳng phải gấm vóc lụa là như chị em Ngọc Tước, nàng chỉ vận áo vải thô sơ, mặt mộc chẳng lẫn chút phấn son. Ấy thế mà nhan sắc kia cũng chẳng bị lu mờ, như hoa sen nằm giữa đầm sâu, muốn phong vận nàng có phong vận, muốn thanh tao, nàng cũng có thanh tao.
Thấy ta bước vào, nàng chỉ mỉm cười, hơi cúi thấp người bày lễ chào hỏi, giọng oanh vàng trong trẻo từ đôi môi ngọt khẽ vang lên:
“Dạ thưa, mời ngài theo tôi.”
Dứt lời, nàng lập tức xoay người dẫn ta đi dọc theo hành lang được che rợp bởi hàng liễu rũ.
Hành lang dài độ chừng cả nửa dặm, nhưng chỉ thấy đâu đó vài ba tiên nữ đang chăm cây, dọn cỏ. Ta cố ý đưa mắt nhìn ra xung quanh một lượt, phía xa xa cũng chỉ thấy toàn núi non trùng điệp, xa tít tắp đến tận chân trời.
Lần trước ta tới Cung Thiềm cũng đã qua mấy trăm năm, lúc đó nơi này kẻ hầu người hạ còn đông vui nhốn nháo. Nhưng lần này trở lại, nơi đây yên ắng đến lạ thường khiến lòng ta hơi chưng hửng, tự cảm thấy có chút không quen!
Đi hết hành lang, đập vào mắt ta là một mái đình nhỏ lợp ngói. Giữa đình, chỉ thấy Cậu Cóc đang cầm cần câu trúc, tựa lưng vào ghế đẩu, mắt lim dim không biết đã ngủ hay chưa.
Ta vừa phân tâm trong chốc lát, thì bất ngờ ở giữa đình, giọng nói dửng dưng của Cậu Cóc chậm rãi vang lên:
“Đằng sau có mỹ nhân không nhìn, thằng nhóc ngươi lại cứ trân trân nhìn ta làm gì?”
Nếu là trước đây, khi ta chưa tự phá tan “Thần” trong lòng mình [3], chỉ e một câu nói vu vơ của Cậu Cóc cũng đủ khiến ta cuống cuồng, như con chim nhỏ sợ cành cong. Nhưng giờ đây, nỗi sợ ấy đã biến mất, trong ta chỉ còn lại lòng thành kính sâu sắc dành cho ngài.
Ta nghiêm mặt, chắp tay thưa:
“Dạ thưa Cậu, con có chuyện thắc mắc nên đến đây là muốn nhờ Cậu giải đáp. Chuyện chưa xong, con nào dám để tâm tư vào những điều khác!”
Ngồi trên chiếc ghế đẩu, thân hình khổng lồ, to hơn cả một con voi của Cậu Cóc chậm rãi xoay lại. Áo bào đỏ khoác trên lưng ngài phấp phới tung bay, như muốn nuốt trọn cả một vùng không gian xung quanh.
Cũng không có nhìn ta trước, Cậu Cóc hướng mắt đến tiên nữ dẫn đường đang đứng sau ta, giọng từ hòa bảo: “Được rồi, con cứ lui xuống làm việc của mình đi.”
“Dạ, thưa Cậu.”
Đợi nàng ta rời đi, Cậu Cóc mới nhìn sang phía ta, hơi híp mắt không biết đang nghĩ gì. Mãi một lúc sau, Cậu mới gật đầu, mặt thoáng nét hài lòng, giọng khàn đục pha chút giễu cợt cất lên:
“Khua môi múa mép thì không ai bằng ngươi! Ngươi muốn đi hội bàn đào nhưng lại sợ chết nên mới đến đây tìm ta, cứ nói huỵch toẹt ra không phải nhanh hơn à?”
Bị Cậu Cóc nói trúng tim đen, ta giật mình cúi gằm mặt, lòng thoáng xáo động, chưa biết biện bạch thế nào cho phải.
Cậu Cóc dường như cũng chẳng để tâm, thấy ta cúi mặt không đáp, Cậu thở ra một hơi rồi đánh sang chuyện khác:
“Thần trong lòng đã phá, ngươi định không trả ơn cho Cậu hay sao?”
Ta ngẩng mặt, đưa ánh mắt nghi hoặc nhìn lên Cậu Cóc, bản thân không nghĩ Cậu lại có thể biết được chuyện mình vừa phá Thần trong lòng.
Ở đối diện, Cậu Cóc thấy ánh mắt ngạc nhiên của ta nhìn sang, chẳng hiểu sao ngài lại nổi giận, vung chân trước gõ mạnh xuống đầu ta một cái.
“Bốp!” Tiếng gõ vang lên tựa chuông chùa ngân, đầu ta đau điếng, lảo đảo như đất trời nghiêng ngả.
Giữa cơn choáng váng, giọng nói hờ hững tựa như chuyện vừa rồi chẳng liên quan gì đến ngài lại vang lên bên tai ta:
“Cái đồ thầy u nhà ngươi! Ta sống hơn trăm ngàn tuổi, chẳng lẽ lại lừa lọc tên nít ranh còn chưa tròn hai ngàn tuổi như ngươi à?”
Nói đến đây, thấy ánh mắt hoang mang chưa biết mình vì sao bị đánh của ta, Cậu Cóc lại giá giá chân trước lên, như hận không thể đánh ta thêm vài cái cho hả dạ vậy.
“Vừa rồi ngươi nhìn Cậu với ánh mắt ngờ vực kia là ý gì? Thân là Thần núi, vậy mà đến cái Thần trong lòng cũng không tự giải quyết nổi, mỗi lần gặp ta đều run như dẽ [4]. Nếu ta không có lòng thương xót, ngươi nghĩ luồng khí mát lành, rửa sạch linh hồn cho ngươi ở trước cổng Cung Thiềm là nước mưa chắc?”
Được Cậu Cóc đề tỉnh, lúc này những thắc mắc trước đó ở trong lòng của ta mới được sáng tỏ. Hóa ra chẳng phải do ta tài cao hơn người, mà thật sự nhờ có bàn tay của Cậu Cóc tương trợ, âm thầm kéo ta ra khỏi vũng bùn trong chính tâm thức mình.
Mọi sự đã tỏ, ta cũng chẳng cần hỏi thêm gì nữa, sau thoán chốc sửng sốt, bản thân vội cúi gập người, giọng trầm vang nghiêm túc thưa:
“Dạ thưa Cậu, Cao Sơn con xin nhận ơn đức của Cậu. Nhờ Cậu mà con mới phá được ‘Thần’ trong lòng mình, bước ra khỏi vùng an toàn do bản thân con tự dựng nên. Nếu Cậu có gì sai bảo, Cao Sơn con xin nguyện làm hết sức mình!”
Nghe thấy lời ta nói, trên ánh mắt Cậu Cóc hiện lên nét cười, còn âm giọng thì vẫn hững hờ như cũ, dặn:
“Khoan nói đến việc ngươi nợ ta, về chuyện hội bàn đào, ngươi có thể đi. Nhưng…”
Nói đến đây, Cậu Cóc quẳng ánh mắt đầy thâm ý nhìn ta, rồi tiếp tục:
“Chỉ có điều ngươi phải cẩn thận, kẻo lúc đi một mình, lúc về bốn người khiêng!”
Nghe tới đây, ta đã thấy có điềm chẳng lành rồi. Ở đối diện, Cậu Cóc thở ra một hơi, cũng không để tâm biểu hiện của ta thế nào, lại nói tiếp:
“Hội bàn đào lần này e là không đơn giản, ngay cả Cậu cũng chưa rõ ý định của chúng Tiên nước Ân. Nhưng có điều, ngươi tuy chỉ là thần núi bé tẹo, nhưng lại có vai trò to lớn trong việc giữ vững địa quốc chốn trần gian. Nếu nhân gian loạn, sinh linh lầm than, ắt lực lượng của các tôn thần đều sẽ bị suy giảm.”
Nghe thế, lòng ta hơi xao động, rối như tơ vò. Cậu Cóc lại thêm vào:
“Nghe ta dặn kỹ. Trước khi lên đường, ngươi phải liệu cho chu toàn mọi sự nơi trần thế. Chớ có khinh suất mà kết bè kết cánh, bước vào chốn quyền quý. Bằng không sẽ dễ gặp phải điều bất trắc.”
Nói đến đây, ngài dừng lại thoáng chốc, ngẩng mặt lên trời khẽ giọng: “Ngươi chỉ cần nhớ: trên đời này, chỉ có nước mưa với phân chim là thứ được ban mà chẳng cần trả giá!"
“Dạ vâng, con tạ ơn lời vàng của Cậu ạ!” Ta vội cúi người, chắp tay tạ lễ.
Lúc này lại sực nhớ đến chuyện ban sáng Gió vừa nói, ta thoáng chần chờ nhưng cuối cùng cũng buộc miệng hỏi:
“Dạ thưa Cậu, con nghe được chút chuyện về Long Thần Sùng Lãm, không biết Cậu có thể chỉ cho con ít đường sáng được không?”
“Chuyện này đám nhóc các ngươi không cần quan tâm. Việc Sùng Lãm mất tích là kiếp nạn của hắn, cũng là kiếp nạn định sẵn của Văn Lang ta. Vận mệnh an bài, làm sao tránh khỏi!” Nói đến đây, ta nghe được lòng Cậu Cóc có vẻ đang chùng xuống.
Thoáng chốc sau, Cậu mới thở dài nhỏ giọng: “Ta đã thử tính một quẻ, chuyện Sùng Lãm tự có số trời sắp đặt, khi nào thời cơ đến mọi chuyện ắt sẽ sáng tỏ. Ngươi không cần để tâm quá nhiều vào nó.”
Nghe vậy, tuy trong lòng còn có chút không yên, nhưng ta vẫn cúi người đáp: “Dạ, con xin nghe theo dặn dò của Cậu.”
Cậu Cóc thấy vậy mới hài lòng gật đầu, sau vài cái chớp mắt ngài lại nói:
“Từ miếu thờ của ngươi đi về hướng Nam, có một ngọn núi nhỏ gọi là Tam Thai, thuộc quản lý của Tiên giới Sa Huỳnh. Ngươi đến đó tìm một cây thuốc gọi là cỏ Thủy Hành. Nếu lấy được thì cứ giữ đó, tương lai có thể ngươi sẽ dùng tới.”
Nghe vậy, lòng ta thoáng bất ngờ. Bởi cỏ Thủy Hành này ta biết, nó là một loại Tiên dược mang trong thân lực lượng hệ thủy mạnh mẽ.
Những loại thảo dược bực này thường sẽ cực kỳ khó xuất hiện dưới trần gian. Thứ nhất vì môi trường không phù hợp, thứ hai bởi thân thể con người không thể chịu nổi nguồn năng lượng do chúng tỏa ra, dễ gây phản tác dụng mà chết.
Vì vậy nếu có tiên dược xuất hiện dưới trần, đều sẽ bị chúng Thần Tiên hái đi để tránh gây họa cho nhân gian.
Ở đối diện, Cậu Cóc thấy ta hơi đăm chiêu cũng không trách móc gì. Cậu xoay thân, hướng về mặt hồ tiếp tục lặng lẽ câu cá. Sau vài hơi thở Cậu mới phất phất tay nói:
“Được rồi, chuyện cần dặn ta đã dặn, ngươi về đi.”
Ta thoáng chần chờ, mặt hiện nét cười nịnh, thấp giọng nói: “Thưa Cậu Cóc, chuyến đi Đào viên này con cảm thấy không yên tâm. Không biết cậu có tấm bùa hộ mệnh nào…”
Lời ta còn chưa dứt, một chân của Cậu Cóc như cây roi dài, vung mạnh đạp thẳng vào mông ta.
Ta chỉ kịp “aaaa” lên một tiếng, đến khi hoàn hồn lại đã thấy bản thân đang đứng ở cổng đá trước Cung Thiềm, trong tai vang vọng tiếng mắng của Cậu Cóc.
“Tên nhát chết nhà ngươi, ta đã tìm được kẻ dự thế vị trí của ngươi rồi, nếu ngươi có chuyện cũng chẳng lo giống như Sùng Lãm, không ai trông coi cõi trần. Nên ngươi cứ yên tâm mà đi dự hội bàn đào đi.”
Biết Cậu Cóc chỉ hù dọa qua loa, ta cung kính cúi người thật sâu, tỏ ý cảm tạ rồi lập tức đạp mây trở lại cõi trần. Dự rằng sau khi hái được cỏ Thủy Hành, mới tiến về Đào viên của Tây Vương Mẫu, dự hội bàn đào.
Từ động thờ của ta đến núi Tam Thai chẳng phải quãng đường xa xôi. Ở cõi nhân gian, Thần Tiên như ta có thể lách qua tầng không, dạo bước tựa như cưỡi gió. Vậy nên, khi mặt trời vừa hé rạng, ánh hồng vừa vươn khỏi đường chân trời, ta đã đứng trên tầng mây cao, phóng mắt quan sát toàn cảnh ngọn Tam Thai.
Quả nhiên, nơi có thể xuất hiện thuốc tiên cũng khác hẳn phàm cảnh. Tiên khí dồi dào, tựa dòng sông vô hình chảy khắp các ngọn núi lớn nhỏ. Sương mù quấn quýt như những dải lụa bồng bềnh, lúc thì lượn lờ mỏng manh như làn khói sớm, khi lại cuộn trào như sóng biển đang dâng. Nó tựa tấm lưới trời, đem ba đỉnh núi lớn nhỏ nơi này bao trọn vào trong, khiến chốn đây vừa hư vừa thực, mang một vẻ uy nghiêm khó tả.
—-*-—
Chú Giải:
[1] Nhận mình là Phật, tức chưa phải Phật: Ý chỉ khi một người tự cho mình là đã giác ngộ, đạt đến cảnh giới cao nhất thì tức là người đó chưa thực sự giác ngộ.
[2] Phá Thần trong miếu dễ, phá Thần trong lòng mới khó (Trích truyện: Mục Thần Ký): Ý chỉ việc phá bỏ những hình tượng thần linh bên ngoài dễ hơn là phá bỏ những quan niệm sai lầm, những thần tượng, điểm tựa khiến bản thân dựa dẫm, ỷ lại, mất dần ý chí cầu tiến của chính mình.
[3] Phá Thần trong lòng: Có thể hiểu như phá đi nỗi sợ, điểm tựa/vùng an toàn của bản thân.
[4] Run như dẽ: Đồng nghĩa với run như cầy sấy - Run lẩy bẩy vì quá sợ hãi.
*Tam Thai: Ba bậc thang
0 Bình luận