Diều
Tí La
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.

Chương 06: Khúc cua tử thần (1)

0 Bình luận - Độ dài: 4,524 từ - Cập nhật:

Đã một thời gian trôi qua kể từ cái ngày Kite bị bắn, vụ án của Gauntlet đã khép lại dưới hình thức của một vụ án treo, người ta đã thôi ráo riết tìm người đàn bà ảo. Ông Brandy sắp xếp cũng thật tài tình, bọn tôi báo sẽ trở lại là trở lại được ngay, có lẽ ông đã nhờ hoặc thuê ai đó ngắn hạn. Vết thương của Kite vẫn cần theo dõi thêm nhưng tôi gần như không còn thấy anh nhắc gì về nó từ sau buổi gặp với Rust.

Phi vụ thứ hai của tôi sắp được thực hiện. Kite đang ngồi trước một chiếc xe cùng loại với chiếc số 63 huyền thoại, lắp đặt các trang thiết bị vào phía sau nó. Để giải thích về việc này, tôi xin phép được trích đoạn bình luận về cú ngoặt đuôi số 63 trong giải đấu năm đó.

“Đội số 63 thật táo tợn, họ lấy chính sự rỉ sét của chiếc xe cũ đó để làm lợi thế và cỗ máy đang gầm rú trên đường kia chính là chiếc có trọng lượng nhỏ nhất giải! Tôi bắt đầu được hiểu cái gọi là thời đại mới rồi, thưa quý vị, rồi tương lai sẽ có thêm những kẻ khùng như vậy đắm mình vào niềm đam mê tốc độ!

Nhưng, trên chặng đua này có một khúc cua tử thần, nơi mà một chiếc xe nếu quá nhẹ sẽ không thể bám đường đủ tốt để băng quá nó. Những kẻ mang chiếc xe có vật liệu các-bon hồi năm ngoái đã thất bại tại đây vì chính ưu điểm về trọng lượng của mình! Vâng, xin lỗi cho cái mồm xui rủi của tôi, mời quý vị hướng về phía của chiếc Rỉ Sét 63 được cầm lái bởi Rust.B.McRust, lời nguyền sẽ bị phá hay được củng cố đây!

Khúc cua càng lúc càng gần rồi, một vài vị lão làng của chúng ta thậm chí còn tăng tốc và đánh một đường thật đẹp! Trông kìa, chiếc số 10, con số của sự hoàn hảo, hãy nhìn cách vệt bánh được in lại trên đường đi! Quả đúng là một màn trình diễn được đưa vào tài liệu của các huấn luyện viên sau này!

Chiếc 63 đang tăng tốc! Thưa quý vị, không biết mắt tôi có lầm không nhưng chiếc 63 đang tăng tốc! Rust ngông cuồng của chúng ta định sẽ làm gì đây? Anh rõ ràng không chọn giải pháp an toàn như những quý ông lịch thiệp xi nhan và giảm tốc mỗi khi đón ngã rẽ! Đây sẽ là một kì tích hay là một tai nạn? Thứ chúng ta sắp thấy là sự vụt sáng của một ngôi sao mới trên bầu trời luôn chuyển động của tốc độ hay là một vụ nổ rợn người?

Thật không thể tin được, thưa quý vị, xin thứ lỗi cho quãng lặng vừa rồi của tôi. Hãy nhìn con bọ số 63 kia đi, nó đang đi ra từ màn bụi rồi! Rust đã làm cái gì vậy cơ chứ! Chiếc xe đi vào, đuôi nó rê nhanh như thể sắp tách ra khỏi thân! Anh ta đã rồ ga để ngăn cái mô men xoay của nó rồi ngay lập tức chuyển số lùi và ngông nghênh nhìn kính chiếu hậu để đua! Một ngôi sao mới, thưa quý vị, những gì vừa xảy ra là điều tôi chưa từng thấy, vệt bánh của nó vẽ nên một chữ R thiếu nét nhưng thật rõ ràng và kịch liệt! Nó chắc chắn không phải là giải pháp nhanh gọn nhất nhưng dưới cái tên mình, tôi thề rằng tôi không bao giờ quên nó!”

Đó là những gì được trích từ cuộc đua mà đội của Kite, Rust và Nail từng thắng, nơi khai sinh cú ngoặt đuôi số 63 và vệt bánh chữ R đã đi vào sử sách. Tôi nghĩ mình đã hiểu kĩ thuật lái xe của Kite đến từ đâu. Anh từng là huấn luyện viên của đội đó, chắc chắn anh đã đóng góp nhiều ý kiến cho Rust.

Nhưng Kite vẫn nói Rust là người duy nhất có thể thực hiện cú ngoặt đuôi đó, bởi vậy, để phục vụ cho vụ án này, chúng tôi cần công cụ hỗ trợ. Cụ thể hơn, chiếc xe được anh sửa đổi kia là công cụ hỗ trợ của chúng tôi. Tất cả ghế trên xe đã được dỡ ra, chỉ còn trơ bộ khung cơ bản nhất, đến cả cửa xe cũng không còn. Kite giảm tối đa trọng lượng để lắp vào ghế sau hai máy rút cáp.

“Giờ đến bảo tàng nào, đi làm thôi.”

Kite vuốt trán khi nhìn đồng hồ, tôi rời tay khỏi tờ báo. Hiện tại, bọn tôi đang ở trong một xưởng tạm bợ nằm ở một khu phố vắng, các dụng cụ được mang đến trong nháy mắt và việc sửa chữa chiếc xe diễn ra rất nhanh. Kite không làm vào ban đêm, anh nói giờ đó có nhiều người thâu đêm xem tivi có thể nghe thấy tiếng động, ngược lại, những âm thanh lớn vào buổi sáng dễ dàng bị nhầm với những chiếc xe quét đường hoặc xe rác.

Bọn tôi bắt một chuyến tàu điện để tới viện bảo tàng, như mọi ngày, ông Brandy đến sớm. Đôi lúc, tôi tò mò xem liệu ông có về nhà hay không hay ở hẳn đây luôn. Kite cầm trong tay một cuộn băng nhỏ, lôi nó ra kiểm tra rồi lại nhét vào túi áo đồng phục bảo tàng. Chúng tôi ngồi xung quanh cửa chính để chuẩn bị đón khách.

Đột nhiên, Kite vớ lấy cái điều khiển tivi - ở quầy hàng lưu niệm có một cái tivi để chạy quảng cáo nhưng nó đã ngừng hoạt động khá lâu rồi. Tôi thấy anh loay hoay một lúc, âm thanh rè rè của bộ máy cũ kĩ kêu lên và nó đón được tín hiệu. Hình ảnh rất xấu, thua cái ở nhà Kite nhưng vẫn đủ để nhìn rõ mặt người.

Anh ngồi xuống ghế, tôi và ông Brandy đón chờ. Một kênh phim tình cảm, lại một kênh phim tình cảm, lại một kênh với những tiếng ré lên trong một trò hài nhảm rẻ tiền. Kite bấm chuyển kênh liên tục một cách mất kiên nhẫn nhưng đều ra những loại mà ba người như bọn tôi không bao giờ xem.

“Dừng!” Ông Brandy lên tiếng, đúng lúc đấy thì Kite cũng ngừng bấm. Đó là một chương trình phim tài liệu về xưởng của Nail - tôi có thể nhận ra gã chủ và cũng là mục tiêu của bọn tôi. Đây là chương trình hợp gu nhất cho đến lúc này, nó nói về những đời chủ của xưởng và chiến tích của những chiếc xe khai sinh từ đây.

“Gã này khí sắc rất dị. Mặt thiếu sinh khí nhưng không nặng nề, sức lực yếu dù tầm vóc không hề nhỏ. Gã phải hay làm một cái gì đó tốn năng lượng kinh khủng, kiểu như…”

“À, cái đấy, cháu hiểu.”

“Rồi, nếu đúng như vậy thì cũng lý giải được sự cáu gắt và thiếu nam tính như trên hình, cơ thể hắn đang bị hắn lạm dụng một cách quá đáng.”

Ông Brandy và Kite nói với nhau những câu tôi không thể hiểu. Mục tiêu của chúng tôi làm sao? Hắn đúng là trông không bình thường lắm, nhưng cái “kiểu như” tức là thế nào? Tôi đang mù tịt, chương trình vẫn chiếu, đến đúng giờ mở cửa thì Kite trèo lên tắt và rút điện nó, ông Brandy lật đật chạy ra cửa phụ để gác.

Tôi nhìn anh không rời mắt để tìm lời giải cho những hành động bí hiểm vừa rồi. Anh thoáng cười rồi lại thôi, lặng như tờ, chúi mặt vào quyển sổ tay như đang tính toán gì đó. Tôi luôn cảm thấy Kite có một lượng kiến thức siêu việt so với tôi - một thằng thất học. Thế nhưng, từ lúc biết anh đến giờ, tôi biết nhiều thứ hơn qua lời chỉ dạy của anh.

Nhắm mắt lại và tưởng tượng về một phi vụ của riêng mình, tôi nén nỗi tò mò xuống tận đáy lòng. Tôi chờ giờ nghỉ trưa đến, không phải để ăn mà là để làm sáng tỏ những gì đang được Kite úp mở. Sau biết bao giả thuyết tôi tạo ra tự đi vào ngõ cụt, Kite đã kéo cửa bảo tàng vào, dáng bộ anh nói lên rằng chúng tôi sẽ phải đi xa trong trưa nay.

Sau khi khuất hẳn khỏi khuôn viên viện, Kite lầm bầm chỉ đủ để tôi nghe:

“Thứ anh đang muốn hỏi có đáp án là “mua dâm”. Mục tiêu của chúng ta hoang dâm vô độ, điều đó là khá chắc chắn vì dù sao ông Brandy đã nhận xét như vậy. Thời gian cần dùng để theo dõi hắn sẽ được tiết kiệm rất nhiều nếu địa điểm tiếp theo cũng cho câu trả lời tương tự.”

Tôi có thể đoán được chúng tôi sẽ tới một “hàng hoa” nào đó. Với tư cách là một kẻ sống bẩn thỉu, tôi biết không ít chỗ tệ nạn nhưng chưa từng tới nơi như vậy một lần nào. Kite bước thật nhanh, chúng tôi lên tàu điện một lúc rồi lại xuống, lại đi bộ. Tầm nửa giờ đồng hồ sau, chúng tôi có mặt trước một hàng hoa thật sự, nghiêm túc đấy, một hàng hoa, không phải “hàng hoa” kia.

Kite bước vào tiệm sau một thoáng chần chừ giống tôi. Đặt bước vào giữa hai chậu hoa tím thơm nồng ngoài cửa, tôi lọt vào trong tiệm. Nơi này bé, cỡ còn không bằng cái phòng khách của Kite, một bên là hoa đã cắt được cắm trong những thùng nước, một bên là hoa tươi còn trong chậu, trên giá phía trong quầy hàng, hạt giống và dụng cụ làm vườn nằm ngay ngắn.

Bà chủ tiệm là một người đẹp, điều đó không còn phải bàn cãi nữa. Bà mặc một bộ đồ có hoa văn đen trắng, tóc búi cao, thân hình nở nang hơi vượt tiêu chuẩn đôi chút, ngồi trên chiếc ghế tựa sau quầy. Tôi không thể ước lượng về tuổi tác nhưng chắc chắn một điều, bà ta lớn tuổi hơn cả tôi và Kite, dù vậy, không thể nói sắc đẹp của bà đã phai tàn. Đôi mắt sáng và ranh hơi tà mị liếc qua tôi rồi đặt lên Kite.

“Cậu tới đây làm gì?”

“Em cần một vài thông tin, nếu được, em muốn xin của chị 10 phút đồng hồ.”

“Được. Comet! Ra quầy!”

Kite nhìn tôi bằng đôi mắt rắn đanh như muốn nói “hãy bình tĩnh” trước khi chúng tôi nối sát gót bà chủ đi vào một cánh cửa bên quầy. Đầu tiên là một hành lang hẹp, hai bên là những món hàng về hoa đang tích trữ, đi được một lúc, lại một cánh cửa nữa. Bà chủ tiệm quay lại nhìn chúng tôi bằng một ánh mắt cợt nhả rồi đẩy cánh cửa ra.

“Cả khối phố này là tiệm hoa.” Kite rỉ tai tôi trước khi bước sang phía bên kia.

Quả thật, nơi này tồn tại một con ngõ nhỏ, hai bên là những căn nhà kéo từ ngoài mặt phố vào. Ánh đèn sáng hắt lên từ cửa sổ lố nhố như những bóng ma hình vuông trong không gian tối om. Cánh cửa kia có song sắt đàng hoàng, có rèm buông, đó là một phòng cao cấp. Cánh cửa dưới thấp này thì chỉ như một ngách thoáng, hèn kém, rẻ rúng. Tiếng của bản năng nhân loại vang khe khẽ, thỉnh thoảng có những quãng cao như tiếng gào đêm của đám chim lợn.

Chúng tôi đi qua con ngõ mà không ai nghĩ sẽ tồn tại này, vào một cabin ở cuối con đường. Nơi này giống một văn phòng thu nhỏ với ánh đèn hồng đỏ chiếu dìu dịu. Kite rút ra bức ảnh của mục tiêu chúng tôi, đặt lên mặt bàn và đẩy về phía bà chủ. Bà ta đặt bàn tay lên và kéo nó về một cách chậm rãi, có lẽ là quyến rũ nữa nhưng tôi đang sợ và cảnh giác nên không cảm thấy.

“Khách quen, thực sự quen đấy. Cậu muốn cắt một miếng mồi ngon của chị sao?”

“Tiếc là như vậy, nhưng tiếc là chị đã xác nhận điều đó, em nghĩ mình đã đủ thông tin rồi.”

Bà chủ nở một nụ cười thích thú với trò đùa ranh mãnh của Kite. Tôi thử nghĩ xem bà ta có thể trả lời thế nào khác nhưng có vẻ là không thể tránh được việc cho Kite thông tin. Từ lúc bà ta đồng ý dẫn chúng tôi vào căn phòng này đã xác định sẽ mất gì đó cho anh. Người phụ nữ có vẻ là đầu sỏ của chỗ này châm một cái tẩu dài, nhả một hơi trước khi viết đôi điều vào sau bức ảnh rồi đưa lại cho Kite.

“Vào căn phòng phía sau, đọc cái tên đằng sau bức ảnh, ở đó, cậu sẽ có thông tin mà mình cần, thông tin thực sự ấy, về bản chất của tên đó.”

“Cảm ơn chị.”

Kite rời khỏi phòng trong ánh mắt cầu xin của tôi. Tôi thực sự không muốn ngồi lại đây với một bầu không khí gượng gạo thế này. Thế nhưng, anh chỉ cười rồi khuất hẳn sau cửa. Tôi quay lại, lén nhìn bà ta rồi cố chuyển sự chú ý đi nơi khác.

“Cửa sổ…” Tôi nhận ra điều kì lạ, theo trí nhớ của mình, căn phòng này không có cửa sổ khi nhìn từ ngoài vào, vậy mà từ trong ra lại có rất rõ.

“Nó không làm từ kính đâu, một vật liệu mờ, hơi trong suốt, nằm đằng sau tấm dán tường. Khi làm như vậy, ở phía bên này, chị có thể quản lý xem phòng nào đang nhận khách, ngược lại, dù khách có là cớm ngầm, họ cũng không thể tìm kiếm được bất kì thông tin gì từ phía bên trong. Nó không hẳn là gương một chiều nhưng hoạt động cũng đại khái thế.”

Tôi bất ngờ vì mình được trả lời tường tận như vậy vì đáng nhẽ ra bà ta sẽ phải rất cẩn trọng. Đúng lúc đó, như một người đã thấu mọi điều – bao gồm cả sự nghi ngờ hiện trên mặt tôi, bà ta tiếp tục nói:

“Chị luôn tin tưởng người Kite đem đến, cậu ta đa nghi hơn tất thảy, hộ cả phần của chị đối với cậu.”

“Tôi không thấy Kite quá đa nghi như thế…”

Tôi lí nhí đáp lại, cảm giác như bà ta đang đánh giá quá cao người đồng nghiệp của tôi. Người phụ nữ đó không giận, chỉ cười rất giả, lại rít cái tẩu dài kì lạ rồi trầm lặng trong làn khói đôi chút.

“Kite luôn nghĩ về những điều tiêu cực nhất trước. Cậu ta có thể buộc tội bất kì ai bằng giả thuyết của mình, tất nhiên, cậu ta không hề nói ra. Nhưng hãy tin vào Kite, rằng trong đôi mắt cứ nhởn nhơ với đời kia suy nghĩ muôn ngàn chuyện và sẵn sàng tâm lí để đối mặt với chúng.

Nhưng sao chúng ta lại nói về Kite khi chỉ có hai ta nhỉ?”

Bà ta ngắt một chút những lời khen dành cho Kite rồi nhìn thẳng vào tôi mà nói. Chuyển động của cơ thể và đôi mắt người đối diện như những khối đá nặng đè lên vai tôi, khiến cho dù đang ngứa ngáy và ngồi không thoải mái, tôi cũng không dám động đậy. Cuối cùng, tôi im lặng, tránh ánh mắt bà ta. Tôi đã thua một người phụ nữ trong một trận đấu.

“Tội phạm hay người thường, chị đều có thể phân loại. Loại thứ nhất, những kẻ sẽ không che dấu dục vọng của mình mỗi khi tới những chỗ như này, trong đôi mắt, ánh lửa của bản năng cháy rừng rực. Loại thứ hai, những kẻ giữ mình, đôi mắt linh hoạt như cú nhưng chỉ tiếp nhận thông tin chứ không hề biểu lộ. Loại thứ ba, những kẻ tách hẳn khỏi bản năng, chị thường thấy nó ở những tên sừng sỏ trong đủ loại lĩnh vực và cả Kite - những đôi mắt chỉ có mục tiêu, những đôi mắt thú săn đôi khi làm ta phải ghê sợ. Còn cậu, cậu lại là một loại khác so với những loại trên…cái cách cậu nhìn chị…Chị tin rằng cậu tự có câu trả lời cho mình.”

Tôi rợn người nhưng quay lại nhìn thẳng vào bà ta. Cảm xúc trong tôi hỗn độn, không hẳn là giận, không hẳn là muốn chối bỏ, còn đôi chút muốn khóc lên nhưng cũng đôi chút thấy thật trống rỗng như chuyện đã qua hẳn rồi.

“Những đứa trẻ như cậu rất khó để thoát khỏi vòng xoáy thông thường: nghèo, thấp kém, chơi vơi rồi sa đọa. Cậu đã sinh ra theo cách như vậy và đã sống đúng với kì vọng vào một người có xuất thân như vậy.”

Tôi lặng người, một hơi thở nặng nề và nóng rát thoát ra từ cổ họng rõ như vừa khạc ra một mẩu diêm còn cháy. Thả mình sâu vào chiếc ghế, tôi thấy thật trống rỗng, câu chuyện cũ đấy đã lấy đi rất nhiều cảm xúc của tôi, thấm vào tôi đến mức trở nên tầm thường. Tôi bất ngờ vì những đợt sóng cuồn cuộn dịu xuống nhanh như vậy.

“Mẹ tôi là một người phụ nữ tốt.”

“Chị cũng đoán là như vậy, có nhẹ nhõm hơn không khi được nói ra?”

“Không.”

“Haha, cậu rất giống Kite đấy. Kite định giết một khách hàng thâm niên của chị với thái độ như vậy, đáng nhẽ ra khẩu súng này đã phải nã nửa băng đạn vào xác cậu ta. Nhưng chị lại thấy không nên làm thế. Kite chưa từng đem đến cho chị một thứ gì thuộc về vật chất, niềm vui khi tận hưởng sự thú vị và kì dị của cậu ta mới là món hàng trao đổi đối với chị. Rồi khi cậu đứng vững trên một đỉnh cao, cậu cũng sẽ có cảm giác kiểu này.”

Bà ta nhấp nhanh cò khẩu tiểu liên, ba vết đạn sượt qua xuất hiện trên cánh cửa và tường. Tôi ngay lập tức nhận ra căn cabin nhỏ này chống đạn, thậm chí là chống một cách kinh khủng. Bà ta có thể cố thủ trong này trong nhiều trường hợp. Sau đó một lúc, Kite quay lại với quyển sổ tay, có vẻ đã ghi chép đầy đủ thông tin.

“Cậu đã có thứ mình cần chưa?”

“Nhiều hơn cả vậy, chị hãy chờ một bản tin lí thú.”

“Chắc chắn rồi.”

Chỉ một lát sau, chúng tôi xuất hiện trên vỉa hè của con phố ấy, bắt đầu bước đi một cách thật bình thường. Kite xé tờ ghi chú của anh và đưa cho tôi đọc, không nói câu gì.

“Hèn nhát, xum xoe, háo sắc, hám lợi, có khả năng giữ bí mật rất tốt, tàn nhẫn và yếu sinh lí. Có thể gọi điện thoại trực tiếp, có thể dụ hắn bằng sắc, khả thi cái đầu tiên hơn.”

“Đó là những gì người rất thân cận với hắn đã miêu tả. Chúng ta có thể gọi một cuộc điện thoại, hẹn hắn về một món hời và có chết hắn cũng không hé răng ra. Hắn trốn vợ để đi mà đến giờ vẫn không làm sao, công nhận là biết cách lén lút.”

Kite nhận xét tổng quan và có lẽ anh đã nhắc đến cách chúng tôi sẽ dùng để tiêu diệt mục tiêu. Nhưng không hiểu vì sao, đúng vào lúc này, tôi thấy rợn người vì cách anh khai thác con người. Tôi bị cái suy nghĩ điên rồ về việc vì sao Kite tin tưởng mình và liệu mình có đang là một con tốt thí ngu dốt dày vò.

“Tại sao anh tin tưởng tôi?”

Tôi bất ngờ vì mình đã thốt lên điều đó, dường như trong một khoảnh khắc, những dòng suy nghĩ đã bóp nghẹt lý trí và để lọt nó ra. Kite dừng lại, tất nhiên là thế, anh quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh lẽo như một cỗ máy, xoáy sâu vào những cảm giác vốn đang hiện hữu.

“Anh đáng nhẽ phải là một người bí mật, một người nuốt mọi thứ về nghề nghiệp của mình xuống họng, một người có quyền uy! Vậy mà anh cứ nói về những mánh khóe của mình như thể anh tin tôi lắm, anh thi thoảng lừa tôi rồi lại nâng tôi dậy như một món đồ chơi! Tôi đã cứu anh vì cảm xúc của mình, nhưng bây giờ, tôi còn không biết liệu tình đồng đội đó có phải là do anh thêu dệt và thao túng tôi để tạo nên hay không. Kite, làm dứt khoát đi, anh coi tôi là một thằng sẽ chết vào bình minh hôm sau nên không thể bật mí gì hay là một thằng đáng để đi cùng?”

Tôi xả những suy nghĩ của mình ra, phổi căng như sắp nổ.

Kite thì tiến tới, mặt anh cao hơn mặt tôi, đôi mắt xanh kia hơi nở điệu bông đùa.

“Vì anh đã từng thề sẽ trung thành với tôi.”

Cái bản mặt và cái giọng phởn phơ này làm tôi điên tiết, bất giác, cú đấm của tôi vùng lên và dội thẳng vào mặt Kite. Anh nhận trọn cú đấy, lảo đảo lùi về phía sau, miệng vẫn cười như một kẻ tâm thần và lao đến với hai bàn tay đã siết thành nắm. Cả vùng miệng tôi bỏng rát sau đòn anh tung ra nhưng chân và tay tôi cũng đã phản đòn không kém. Trong cơn cuồng nộ, những miếng võ đã ngấm vào máu thịt giúp tôi chiếm lấy lợi thế.

“Haha, anh vẫn như vậy, anh vẫn đúng là thằng khùng ở quán Rattime!”

Tiếng của Kite thì phải, nó làm tôi sởn gáy. Tôi vẫn nhớ như in cái tên đó. Trước đây một thời kì, khi thành phố của máu và tiền này nghèo hơn, có những đám trẻ lang thang chuyên tụ tập đằng sau những nhà hàng lớn để lục thức ăn thừa. Mỗi nhà hàng sẽ có một lực lượng “thực khách bãi sau” trung thành khác nhau, dần biến thành những băng nhóm nhỏ. Tôi khi đó cầm đầu một đội ở quán Rattime, có tiếng là thằng khùng vì sao thì tôi cũng không còn nhớ nữa.

Lời thề trung thành… điều đó cứ văng vẳng trong đầu tôi như những tiếng ong ong choáng váng lúc xô xát thuở nhỏ. Nó gợi tôi về một điều gì đó nhưng tôi cũng đã quên bằng sạch.

“Thế anh có nhớ chiếc cà vạt đen của quán Mimmore không?”

Tôi khựng lại, Kite chỉ chờ có vậy, quật tôi xuống và khóa chặt tay. Anh ngồi trên vai tôi, đè nặng làm tôi không vùng vẫy được. Cơn đau bủa vây bộ não nhưng thứ tôi quan tâm chỉ là chiếc cà vạt đen. Vì sao lại là cà vạt đen chứ không phải là màu khác? Vì đó là một món đồ thải trong bộ đồng phục nhân viên nhà hàng Mimmore được nhóm trẻ ở đó nhặt được. Tôi đã từng bị khóa chặt cổ bằng chiếc cà vạt đấy.

“Anh đã thề với tôi trong một tình thế gần giống lúc này hơn mười năm về trước. Thằng khùng ở quán Rattime đã chịu thua lần đầu tiên trước cà vạt đen của quán Mimmore dưới một hầm cầu, hai bóng đèn đường gần đó bị vỡ do chính bọn trẻ đã ném vì không muốn bị ai đó đi qua phát hiện.”

“Anh là nó?”

Tôi the thé bằng cặp phổi đang bị đè chặt. Đã rất lâu rồi tôi mới sửng sốt đến thế. Tôi không thể tin Kite là thằng nhóc cà vạt đen. Khi đó, nó lớn tuổi hơn tôi, đã đến mốc dậy thì nhưng vẫn lùn tịt. Nó gầy một cách thảm hại, dường như nó không thấy đói chứ không phải không có cái ăn. Nó có đôi mắt xanh, cái miệng hơi hé ra suốt ngày để phì phò do tắc mũi. Tuy rằng khuôn mặt nó có nét sáng nhưng tôi chỉ thấy sự nguy hiểm và đôi chút buồn.

Ngược lại, Kite là một người khá ưa nhìn, không đẹp một cách sáng chói nhưng ưa nhìn. Tôi không thấy có cơ hội nào để thằng nhóc đó lột xác thành Kite, nhưng rất ít người biết về lời thề ấy, tôi nhớ một đứa đã chết do đói, một đứa đã chết do sốt, mấy đứa lưu lạc đến thành phố khác.

Kite buông tôi ra khi thấy tâm trạng tôi đã bình tĩnh hẳn xuống. Anh đặt vào tay tôi cuốn sổ tay của anh, kỳ dị thay, không một trang nào có chữ, hệt như một quyển sổ mới toanh nhưng mỏng hơn đôi chút.

“Tôi chính là thằng nhóc đó, tôi đã trưởng thành, đã quan sát anh từ lúc mà anh mới vào tổ chức, sau khi biết anh vẫn là thằng khùng của quán Rattime, tôi mới xin điều chuyển anh về bộ phận này. Những gì chúng ta nói và hứa trong trận chiến hôm đó, có lẽ anh đã quên vì lúc ấy anh chỉ là một đứa trẻ không rõ ngày hôm sau còn sống được hay không, nhưng tôi thì nhớ.

Cuốn sổ này tặng cho anh đúng như nguyện vọng. Từ giờ, những cuộc phiêu lưu của chúng ta nên bắt đầu được ghi chép lại. Nhưng xin hãy giữ nó thật cẩn thận như giữ tấm lòng của anh..”

Tôi đón lấy cuốn sổ tay nhỏ, nhìn Kite, anh vẫn mang đôi mắt và bản mặt đã khiến tôi bộc phát như ban nãy. Anh vẫn đáng sợ như hồi chỉ còn là một đứa trẻ ranh. Tôi bắt đầu thuật lại những câu chuyện vào trong cuốn sổ này kể từ khoảnh khắc ấy. Con phố bán hoa thì khá vắng vẻ, có lẽ cuộc ẩu đả của chúng tôi không có một ai chứng kiến.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận