Diều
Tí La
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Đoạn 1: Thành phố của máu và tiền.

Chương 02: Cú nốc ao (2)

0 Bình luận - Độ dài: 5,666 từ - Cập nhật:

“Chuyện gì sẽ xảy ra với cái vali đó?” Tôi hỏi vì nhìn anh có vẻ sẵn sàng để tiếp chuyện.

“Nó sẽ biến mất triệt để trong một lò thiêu nào đó. Vì vấn đề tài chính, cửa hàng ấy làm cho bên ta việc xử lý tang vật, ông chủ quyết tâm giữ lại sản nghiệp của gia đình ấy mà.”

Kite đáp lại, tôi không bất ngờ lắm. Quả thực một cửa hàng như vậy rất khó cạnh tranh ở thời đại này, theo phong cách của biển quảng cáo thì tôi khá chắc nơi ấy đã tồn tại từ cỡ hơn nửa thế kỷ trước. Khi phải đi mải miết mới có một chỗ bán đồ, chỗ này chắc từng đắt khách lắm.

“Thế còn về cuộc hẹn tối nay với khách hàng?”

“Tối nay có một buổi biểu diễn xiếc, chúng ta sẽ gặp khách hàng trên khán đài D trong tiết mục huấn luyện thú. Đó là công tác sau cùng của dịch vụ: ổn định lại tâm lý cho khách hàng. Tùy từng người mà phản ứng của họ sau khi giết một sinh mạng lại khác nhau, lý do để hạ quyết tâm cũng không ai giống ai cả. Thường là do tình cảm, tôi hay nhận những đơn như vậy vì nó có những yêu cầu đặc biệt về cách xử lý. Còn nếu vì tiền và chỉ muốn đối phương chết, họ sẽ tìm đến các ban ngành khác trong tổ chức của ta. Lan man quá, nói chung là buổi gặp mặt cuối cùng sẽ là lúc để lắng nghe cảm xúc của họ sau khi giết người. Điều đó là cần thiết để đảm bảo an toàn cho cả khách hàng và chúng ta.”

Kite có vẻ rất nghiêm túc khi nói đến vấn đề này và anh muốn tôi cảm thấy rõ điều đó. Lời anh nói thật hỗn loạn, không bám theo trật tự nào rõ ràng nhưng tôi nghĩ có một ranh giới vô hình nào đó được ám chỉ. Anh tự coi mình là khác biệt so với phần còn lại của tổ chức vì anh thực hiện những yêu cầu về tình cảm? Anh căm ghét nó hay tận hưởng nó? Tôi không rõ lắm, ít nhất hiện tại là như vậy.

Tôi ghét bầu không khí bị nguội đi và trở nên khó để cất lời, bởi vậy, tôi nói tiếp dù vẫn còn vương suy nghĩ từ câu trả lời trước.

“Liệu có bao giờ tôi phải lên một kế hoạch giống như anh không? Như hôm nay?”

“Sẽ đến lúc cho điều đó, tôi chắc chắn. Tôi nghĩ vấn đề không nằm ở tố chất nên ai cũng có thể làm được. Anh có muốn nghe đôi chút về cách tôi đưa ra kế hoạch này không?”

“Nếu được vậy thì tốt quá!”

Tôi nói thật lòng đấy, thực sự tôi rất cần ai đó hướng dẫn, hoặc ít nhất là nâng cái trình độ của mình lên đến ngưỡng có thể giữ được vẻ bình tĩnh mỗi khi phải làm vụ gì đó. Tôi phải đủ để không bối rối và lúng túng vì nếu để lại tang vật hay dấu vết thì sẽ rất rắc rối.

“Nếu để nói về tư duy thì đầu tiên anh phải nghĩ đến điểm yếu của đối phương, nào, anh thấy gì từ mục tiêu ngày hôm nay?”

Sau một lúc trầm ngâm như để tìm điểm bắt đầu cho bài giảng, Kite cất tiếng. Tôi gật gù, tỏ ý như đã nghe kỹ lời anh nói và quả thực thì ấn tượng của tôi về tên béo khá nhiều, sẽ mất một lúc để sắp xếp sao cho hợp lý trước khi chuyển nó thành câu.

“Hắn có vẻ không giống một võ sĩ quyền anh lắm, rất cục mịch, chậm chạp. Như anh nói từ trước thì hắn còn có tiếng xấu vì những tin đồn tình cảm. Nói chung tôi thích vị khách của chúng ta hơn.”

Tôi cảm thấy thật tồi tệ, tôi vừa lảm nhảm một mớ bòng bong. Tôi vừa tham gia vào một vụ giết người mà không kể nổi ba đặc điểm ra hồn của mục tiêu, quả thực tôi đứng đó chỉ để làm minh họa. Nhưng Kite gật đầu hài lòng, có vẻ anh cũng không quá thất vọng về màn đối đáp.

“Anh nói đúng hết, điều đó đáng để ghi nhận, mọi chuyện chỉ cơ bản như vậy thôi. Sau khi đã xác định được điểm yếu của mục tiêu, chúng ta xác định động cơ gây án của chính khách hàng. Gã hôm nay chúng ta giết xuất thân từ một phòng tập cùng thành phố với khách hàng. Hắn lọt vào mắt một tên đại gia, được bọc lót bằng thuốc và dàn xếp qua kha khá trận đấu thời mới bắt đầu đặt chân vào nghề. Nói chung thì thành tích của hắn rất ấn tượng dù thực lực thì không có mấy.

Một thời gian sau đó thì có giải quốc gia và hắn muốn ăn chắc một suất. Mỗi thành phố một ứng cử viên, khách hàng của chúng ta cũng là một trong số đó. Tên béo đã tự tay hành hung huấn luyện viên của Gauntlet, ông bị xuất huyết não và nhiều chấn thương khác, phải khâu 19 mũi. Vụ án được chống lưng bằng tiền của gã đại gia nên hắn chưa bao giờ phải đối mặt với bất kỳ trừng phạt nào về pháp luật.

Không có huấn luyện viên vẫn có thể kiếm tạm người khác để đi thi, nhưng Gauntlet đã từ bỏ cơ hội đấy để chăm sóc cho thầy của mình. Anh ta đã ở bên ông ấy cỡ… tôi không nhớ rõ chi tiết này lắm, chắc gần nửa năm trước khi ông chết vì suy kiệt do chấn thương quá nặng. Gauntlet sau đó trở lại giải, vừa điều hành phòng tập vừa kiếm một vé lên giải quốc gia lần nữa.

Dù không vô địch nhưng giải đấu năm đó cũng cho tên béo tiếng tăm ổn định, thế là hắn gạt bay mối quan hệ với tên đại gia bằng một vài bằng chứng then chốt trong vụ hối lộ ở thành phố đấy. Tên đại gia vào tù, thất bại trong việc kéo hắn theo. Hắn thì tiếp tục dùng thuốc ở một số trận, đánh cầm chừng, nhận hợp đồng quảng cáo và thậm chí là cả dàn xếp mình thua để kiếm ra tiền. Xét về mặt quyền anh, tên béo đó rất tồi, nhưng xét về làm kinh tế, hắn hơn khá nhiều người. Cơ thể hắn phát phì sau một đợt đến mức phải đổi hạng cân.

Gauntlet thì sau khi trở lại giải cũng chật vật lắm mới đến được vòng trong. Anh ta vô địch giải quốc gia, khá suýt sao và ít danh tiếng nên không được yêu thích lắm. Năm sau thì mất luôn đai vàng do thời kì hoàng kim về thể chất đã qua. Trong suốt những năm có tên trong danh sách tuyển thủ, Gauntlet luôn thách đấu tên béo để báo mối thù năm xưa một cách công khai. Nhưng chọn đúng cái năm mà anh ta đang thua liên tục và mất cảm giác thi đấu nặng nề, tên béo chấp nhận lời thách đấu.

Gauntlet thua trong trận đấu đấy, tên béo có dùng thuốc và trọng tài xử không công tâm, tôi tin là anh cũng có thể tưởng tượng ra. Đó là hồi cuối năm ngoái, đến đầu năm nay thì Gauntlet hạ quyết tâm và đặt đơn hàng này, chuyển luôn về đây làm đại diện ở một phòng tập.

Thật may vì năm nay tên béo đang đổ đốn nặng với đủ loại tin đồn thất thiệt, hắn cũng có mở một phòng tập mới ở thành phố của chúng ta nữa. Tôi dễ dàng nắm được những điểm yếu mà anh nói. Tên béo chết có lẽ là một thành công với nhiều người trong thành phố này, ngược lại, sự ra đi của Gauntlet mang rất nhiều đáng tiếc.”

“Ra đi?”

“Vị khách của chúng ta đã giải nghệ hồi đầu năm, đó là khi muốn giết người, có lẽ anh ta quyết không để mối tư thù ăn vào môn thể thao đã làm nên cuộc đời mình. Anh ta về đây với tư cách đại diện cho một phòng tập chứ không phải tuyển thủ mà. Nhưng đừng vì những lời tôi nói mà nghĩ chúng ta hay anh ta còn tốt đẹp, chúng ta đều là kẻ đã nhúng chàm, là cái ác.”

Tôi không có quá nhiều thiện cảm với vị khách trong lần đầu tiên gặp nhưng kể từ khi Kite nhắc đến cái tên Gauntlet, đầu tôi cũng nhớ mang máng đã từng nghe qua cái tên này. Trong lúc thực hiện và sau lúc đó, tôi cảm thấy anh ta đáng thương nhiều hơn là ghê tởm, giờ thì càng chắc chắn về việc nhân cách của vị khách này không quá tồi. Vậy thì càng đáng lo hơn, nếu anh ta bị dằn vặt về vụ này thì sẽ rất tệ. Tôi nghĩ mình đã hiểu tại sao còn phải có một bước gặp mặt.

Nhưng câu cuối cùng của Kite làm tôi phải suy nghĩ. Có lẽ anh sợ tôi sẽ tưởng mình là người đã thay trời hành đạo? Có thể trong câu chuyện này, giết người đó không hẳn là sai, nhưng tôi tự tin mình nhận thức được rằng về bản chất mình vẫn là tội phạm.

Chiếc xe của chúng tôi đột nhiên chậm lại và tôi nhận ra đây chính là con phố ban sáng.

“Đi từ từ để gã tài xế có thời gian đi ra. Đấy, gã ta thấy ta rồi, gã đang tới rất nhanh.”

Kite nói và tôi để ý người ăn mặc chỉnh tề như ông chủ kia lại bước đến. Chúng tôi xuống khỏi xe thì gã nhảy lên ngay lập tức và lái vút đi. Bọn tôi lại đi bộ theo con đường cũ để quay trở về nhà, lúc này còn chưa đến 7 giờ sáng. Cả thành phố này bắt đầu đón một đợt báo mới mà không hề hay biết về vụ giết người vừa xảy ra vì báo đã được xuất bản trong đêm. Tôi nghĩ ra tay vào buổi sáng như thế này hay hơn, dân chúng sẽ mù tịt cho đến cỡ một ngày sau, vài nhân chứng sẽ quên những thứ thuộc về trí nhớ ngắn hạn.

Có thể Kite đã tính đến cả điều đó, tôi thấy anh nhìn đồng hồ và lẩm bẩm về các mốc thời gian: cỡ 7 giờ hơn là khả năng cao cái xác đã được phát hiện bởi nhân viên nhà hàng rồi. Để các vị cảnh sát vào việc điều tra thì có thể đến 8 giờ.

“Ít nhất chúng ta sẽ tránh được một giờ đầu tiên sau khi chết.” Kite cất câu đó lên thành tiếng rõ, kết thúc những dòng thì thầm.

Chúng tôi đã về đến nhà, Kite đưa tôi chìa khóa rồi đổi giày và áo khoác. Anh có vẻ như lại chuẩn bị đi đâu đó. Tôi tỏ rõ ý muốn hỏi bằng cách đừng tần ngần chứ không ngồi. Người thanh niên kia bật cười, tôi gượng cười theo cho đỡ ngượng.

“Về lý mà nói thì tôi đang làm bảo vệ của bảo tàng. Chi tiêu và sống như một bảo vệ của bảo tàng, làm việc khoảng 8 tiếng đồng hồ, có thể thay ca trực giữa giờ hoặc bỏ đi đâu đó cũng được. Anh đã có công việc nào để che mắt chưa?”

Tôi chưa, tôi tưởng làm toàn thời gian ở tổ chức là một công việc rồi chứ? Hằng ngày tôi đến chỗ làm hoặc chỗ hẹn, lo việc sếp giao xuống hoặc đi xử lý đột xuất một vài thứ. Tôi bị thuyên chuyển nhiều lần qua nhiều nhánh lặt vặt của tổ chức và cuối cùng đáp xuống ở đây, cùng một đội với Kite. Vậy nếu hỏi tôi có công việc nào để che mắt chưa thì...

“Tôi đoán là chưa.” Kite nói thay.

“Đúng là vậy, nhưng giờ thì tôi sẽ cấp tốc tìm ngay!” Tôi cố gắng chữa cháy.

“Thôi, đi theo tôi, bảo tàng đang thiếu người. Dù không quá lý tưởng khi để anh làm chung một chỗ với tôi nhưng thế cũng được rồi, chúng ta sẽ chấp nhận rủi ro.”

Kite đổi sang chiếc áo khoác ít nghi thức hơn và đi đôi giày cũ một cách thật thoải mái. Nếu như với bộ đồ sáng nay anh ra ngoài, nhiều người sẽ lầm tưởng anh là một người thuộc tầng lớp trung lưu thì nay, hàng râu kia lại ăn khớp với vẻ bụi đời, giống như anh chỉ là một người đã lâu không ăn bữa nào no. Kite thay đổi chóng mặt trong khi tôi vẫn lúng túng chưa biết nên mặc bộ khác hay không.

“Tôi thì không coi trọng việc cải trang lắm, cái tôi quan trọng là bầu không khí bộ quần áo đem lại thôi. Anh chỉ cần chỉnh… thế này, xong, anh đã giống một người thực sự cần một công việc như bảo vệ viện bảo tàng rồi đấy! Mà lừa lọc với ông ấy không có nhiều tác dụng lắm…”

Kite nói khi miết lại đường cổ áo của tôi để nó xếch lên chứ không nằm đúng chuẩn như trước, kéo hai bên vai áo khoác ra ngoài đôi chút. Áo sơ mi tôi đóng thùng cẩn thận cũng được nhấc ra, xoa gắt vùng áo ở bụng một lúc để vò nhàu nó. Tôi trở nên nhếch nhác và gầy hơn một chút nhưng vẫn có được mức lịch sự vừa đủ, quần áo vẫn thế nhưng trông chắp vá như là ghép đồ từ mấy buổi giảm giá khác nhau.

Tôi thật sự ấn tượng với khả năng của Kite. Anh lại đi trước, có vẻ như chúng tôi sẽ đi bộ đến chỗ làm. Lần này, Kite bước rất nhanh, nếu không phải tôi đã quen với việc cuốc bộ hàng cây số mỗi ngày thì tôi không chắc mình có thể bắt kịp anh. Tôi tự tin là rất ít người đủ sức bám đuôi chúng tôi với tốc độ này. Các viện bảo tàng nằm ở vị trí rất đắc địa trong thành phố, những tuyến đường dẫn đến nó nhiều vô kể và chúng tôi không gặp khó khăn gì.

Đến nơi thì Kite chẹp miệng, có lẽ anh đã muộn làm hôm nay. Viện bảo tàng được sắp xếp thành cụm, hoặc nó gọi là gì thì tôi không rõ lắm, kiểu như cái chúng tôi đang đứng trước là bảo tàng nghệ thuật. Ngay bên cạnh, cùng khuôn viên này chính là bảo tàng lịch sử, còn có bảo tàng quân sự hoặc nhiều cái khác đặc trưng hơn. Mỗi tòa nhà đều rất to, có những bậc thang lớn kéo dài theo mặt tiền.

Tôi không còn nhớ lần cuối cùng mình tới bảo tàng là khi nào nữa nên chỉ biết theo bước Kite đi vào trong. Tấm biển đặt cạnh cửa loáng thoáng ghi mở cửa lúc 8 giờ sáng, tôi nghĩ thật may vì mình không phải gánh nặng làm anh ta muộn giờ. Nếu thế thì anh ta thở dài vì cái gì nhỉ?

Chúng tôi vào bảo tàng nghệ thuật bằng cửa của nhân viên, ngay lập tức, một ông lão cao gầy với khuôn mặt hóp chạy tới. Ông mặc một bộ âu phục chuẩn chỉ với vài chi tiết xanh nước rất trầm, trước ngực đeo bảng tên, trên đầu có đội một chiếc mũ, tổng thể mà nói thì tôi khá chắc đó chính là đồng phục cho bảo vệ ở đây.

“Cậu đây rồi, thật tuyệt, đoàn khách ngày hôm nay sẽ rất khó xử lý nếu như cậu lại đột xuất xin nghỉ đấy! Nào, Kite, hãy mau thay bộ đồng phục của chúng ta vào đi, nhớ chải lại đầu nữa. Còn vị này là?”

“Bác Brandy, tôi đem đến một ứng cử viên sáng giá cho chân bảo vệ còn khuyết của chúng ta. Anh có thể tự giới thiệu về mình chứ?”

Kite đáp lại ông Brandy – người có vẻ rất quý mến anh, bằng giọng hào sảng dễ ưa – khác hẳn giọng anh ta dùng để nói với tôi. Ông già bước về phía tôi bằng điệu bộ khá gấp, nheo mắt như nhìn một loài vật trong sở thú. Tôi cảm thấy khó chịu, hoặc có thể vì ông đã già nên không có kính với ông là một cực hình, buộc ông phải hành động khiếm nhã.

“Cậu từng tập qua một vài môn võ từ Châu Á hả? Hừm, khổ người cao, mũi bình thường, mắt tối màu, có lẽ bậc thân sinh của cậu là dân nhập cư. Tôi lo về tuổi thơ trên đường phố của cậu đó, chàng trai trẻ, nhưng tôi tin chắc rằng nếu là bảo vệ mà còn được Kite giới thiệu thì cậu sẽ làm tốt công việc của mình.”

Tôi mất vài giây để tin đó là lời được nói bởi một ông già trông đã lẫn. Biển tên của ông kề sát mặt tôi và cái tên Brandy Drandy chắc chắn sẽ không bao giờ rời khỏi óc tôi một lần nào nữa. Một người đàn ông bình thường làm nhân viên của viện bảo tàng vừa xổ ra quá khứ của cuộc đời tôi.

“Vụ võ Châu Á mới đấy bác!” Kite hòa vào bầu không khí bằng một câu tán thưởng, rất khó để nói đó là khen thật hay giả.

“Cậu có thể thấy rất rõ mà, nhìn vai của chàng trai này đi, rồi nhìn phần ngực và bụng đằng sau lớp sơ mi mỏng này: chúng trông rất bình thường, có thể nói là có sức nhưng không nhiều. Ngược lại, bàn tay thì có vẻ rất có lực. Võ Châu Á loại phổ thông và tự học thường có nhiều đòn chân và tay, ít đòn dùng cơ phần thân giữa nên đó là hợp lý. Cậu không tới đây bằng xe phải không Kite? Một người đi bộ đuổi kịp cậu mà không hụt hơi thì không tồi chút nào đâu, bắp chân chàng trai này cũng thuộc dạng được rèn đấy.”

“Ghê thật, tôi có thể đọc về những thứ này ở đâu?”

Kite hỏi Brandy làm ông nức mũi, có lẽ một người già nhàm chán rất ít khi nhận được lời khen nồng nhiệt thế này.

“Ở bảo tàng quân sự có mô hình về các võ sư nổi tiếng cho từng môn võ, rất hợp để nghiên cứu cơ thể, ở đó còn có bảng chú giải. Nếu không có đủ thông tin, cậu có thể tới thư viện phía bên kia đường và lần giở những mục về võ. Tôi nhớ mình đã từng đọc một cuốn rất hay về chủ đề này, nhưng để nhớ lại tên của nó thì chắc phải mất một khoảng thời gian.”

“Cảm ơn bác, vậy thì anh bạn này của tôi có được nhận hay không?”

“Có chứ, bảng tên thì không thể có ngay được nhưng đồng phục thì luôn sẵn sàng. Cậu có thể dẫn anh…”

“Alex, Alex Anom!”

Tôi phải vội chen vào ngay, cuộc nói chuyện này làm tôi căng thẳng vì bị động trong chủ đề. Ông Brandy gật đầu, mà chắc ông cũng chẳng nhớ ngay đâu vì thấy ông vừa quay đi đã ngập ngừng không biết gọi tôi kiểu gì. Nhưng ông ngại hỏi lại, bởi vậy, ông đi ngay tức khắc, né tránh thay vì đối diện. Kite cười và nói tôi đừng nên quá lo lắng về ông ấy.

“Bác Brandy là một người đáng kính, đôi lúc tôi cũng không rõ bác ấy cố tình làm ngơ những dấu hiệu hay thực sự tuổi già đã tước đi khả năng của bác.”

“Bác ấy có trong tổ chức của chúng ta không?” Tôi hỏi vì cảm thấy người đàn ông có tuổi kia không phải một người tầm thường.

“Không, tiếc là vậy hay may là vậy? Cũng khó để nói. Bác Brandy là một thám tử có tiếng của thời kỳ trước, đã chuyển vào làm trong bảo tàng từ sau một tai nạn nghề nghiệp khá nghiêm trọng. Giờ đây bác đã không còn đôi mắt hay đôi tai có thể đọc rõ manh mối nữa, thế nhưng kiến thức của bác thì càng lúc càng nhiều. Nào, đi thôi, tôi sẽ dẫn anh đến chỗ đồng phục. Anh cứ mặc cả bộ nhé, bỏ cái thẻ tên đi.”

Một lúc sau, tôi đã khoác trên mình bộ đồ giống hệt ông Brandy và Kite. Người bảo vệ già kia có vẻ sẽ làm việc ở khu vực cửa phụ còn tôi và anh bạn của mình ngồi hai bên chỗ cửa chính, đối diện nhau. Mọi thứ diễn ra quá nhanh từ đêm qua tới giờ và có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nhìn Kite một cách nghiêm túc.

Anh có một khuôn mặt khá vuông, vẻ rất rắn rỏi và nam tính. Mũi cao, dáng rất rõ, có thể nói là khác hẳn với người bình thường. Đôi mắt anh màu xanh rất sáng và lanh, toát lên vẻ hiền lành và đầy năng lượng. Tôi có thể thấy nét tuổi tác trên khuôn mặt anh nhưng nhìn tổng thể thì lại không rõ, kiểu như anh có tuổi nhưng tâm hồn vẫn rất trẻ trung. Nhưng nếu để nói rõ thì tôi nghĩ anh tầm ba mươi. 

Tôi nghĩ mãi, anh có một vẻ gì đó… hao hao vị khách kia? Cái mũi khá giống, màu mắt cũng vậy. Khách đã tới từ bao giờ ấy? Bảo tàng mở cửa rồi à? Tôi giật mình, thấy Kite đứng lên ngay lập tức trước đoàn khách sang trọng mới bước vào bảo tàng, dựa vào cách hành xử của anh và họ thì có thể nói họ đã đặt chỗ trước.

Một bà cỡ gần bốn mươi đi đầu đoàn, xúng xính trong bộ trang phục của quý tộc thời trước với một lớp váy bồng bềnh to, một cái eo thắt bé và những diềm tinh tế trên vùng vai. Tôi có thể nói đó là một bộ trang phục đẹp nhưng người mặc thì không hẳn. Theo sau bà ta là một người phụ nữ trẻ, tuổi chỉ đôi mươi, cũng mặc một bộ đồ kiểu cũ nhưng đơn giản hơn rất nhiều. Dù vậy, đôi mắt và sống mũi, cả đôi môi cô nữa, chúng đều nằm một cách hoàn hảo trên khuôn mặt gọn hơi điểm tàn nhang. Tôi có ấn tượng mạnh với cô, vẻ đẹp của người con gái ấy có một cái gì đó rất đầm và đậm, khác hẳn sự chói sáng của những nghệ sĩ nổi danh thời này. Cô có nét giống Kite nữa, thật khó hiểu.

Sau đó còn vài người khác, trang phục thấp hẳn một bậc, tôi đoán đó là người hầu của hai vị quý tộc trước. Thời đại thay đổi, tuy rằng quyền của quý tộc đã giảm không ít nhưng cái chính là tiền. Họ vẫn có tiền, họ vẫn có tiếng nói nhất định. Hai vị nữ quý tộc này đã đặt chỗ ở bảo tàng chúng tôi và cái chẹp miệng sáng nay của Kite có lẽ là dành cho họ. Anh không muốn đón tiếp những đối tượng kiểu này chăng?

“Đã rất lâu rồi kể từ lần cuối tôi đến thành phố này, cảm ơn cô vì đã đưa ra một đề nghị tuyệt vời đến vậy về điểm đến cho buổi sáng đầu tiên. Nào, vậy ai là người sẽ đồng hành với chúng ta trong tiết trời thư thái ngày hôm nay?”

Bà ta nói oang oang, giọng ám mùi hách dịch. Tôi không thích bà ta và đồng cảm một trăm phần trăm với người đồng nghiệp của mình.

“Anh Kite Kenson đây là hướng dẫn viên tốt nhất của nhánh bảo tàng nghệ thuật này.” Cô quý tộc trẻ cất giọng, âm lượng nhỏ hơn rất nhiều, trái ngược hoàn toàn với bà kia. Giọng cô ấm áp nhưng vẫn rất thanh, nói chung là cái giọng mà người thường sẽ tưởng tượng ra khi nhắc đến giọng một người phụ nữ đẹp.

Kite không cúi mình hành lễ trước quý tộc như nhiều người vẫn làm. Anh chỉ mỉm cười lịch sự để không làm mất bầu không khí. Tôi chạy ra gần đó trong lúc anh nói:

“Xin chào quý khách, mời sang lối này, chúng ta có thể bắt đầu chuyến tham quan với những bút tích đầu tiên của người tiền sử trên vách đá, là những định nghĩa mơ hồ sơ khai của khái niệm nghệ thuật.”

Bà ta cười nói một đống gì đó mà tôi không hiểu. Vì viện bảo tàng cũng vắng khách và có ông Brandy nên Kite bảo tôi hãy đi theo để nghe đôi chút, về sau tôi cũng phải làm hướng dẫn viên trong một số trường hợp. Kiến thức của Kite có vẻ không sâu nhưng cái cách anh trình bày nó ra khiến nó thật cao siêu, khả năng này hơi giống những người chào hàng. Tôi cũng suýt nữa bị cuốn vào nếu không phải vì mang sẵn tâm thế là Kite luôn có chiêu trò gì đó.

Dọc đường, tôi để ý đến vị nữ quý tộc trẻ khá nhiều, vì nhan sắc mà. Tất nhiên là tôi cũng cố để so sánh thêm về cô với Kite vì hai người thực sự trông rất giống nhau. Giờ tôi không bỏ được suy nghĩ đó ra khỏi đầu nữa. Về phần chính họ, họ có vẻ không quen biết gì nhau, bà quý tộc và những người hầu cũng không phản ứng gì đáng kể.

Buổi tham quan kết thúc trong sự hâm mộ mà bà quý tộc dành cho Kite. Bà so sánh và tán thưởng anh bằng những cái tên lạ hoắc đối với tôi. Đoàn khách đặt trước đã rời đi, tiếng cười của bà ta vẫn còn văng vẳng sau những bậc thang dẫn ra khỏi đây. Tôi đứng nép bên cửa, nhìn bóng người đi xa và đột nhiên nhận ra cô quý tộc kia còn ở lại.

Tôi không ở đủ gần để nghe rõ nhưng tôi có thể thấy Kite cười một điệu rất dửng dưng và đáp lại cô bằng những câu ngắn cụt. Anh trông không hề hợp tác trong cuộc trò chuyện dù người con gái kia rất khẩn khoản. Cuối cùng, cô chào tạm biệt và rời đi, Kite nói vọng theo sau:

“Đi thong thả, cô Vellington.”

Chúng tôi quay về chỗ ngồi của mình sau đó và tiếp tục chờ đợi. Kite giở sổ tay ra và lúi húi viết một cái gì đó, tôi thì cứ định hỏi anh về chuyện vừa rồi nhưng rồi lại thôi. Thỉnh thoảng sẽ có một người trẻ tuổi nào đó, tay cầm sổ tốc ký và bút, đi vào bảo tàng để nghiên cứu cho bài tập. Nhưng cũng chỉ thế thôi, công việc này thực sự rất nhàm chán, hoặc nhàn.

“Vậy là đã xong nhiệm vụ của sáng nay rồi!” Đột nhiên, tôi thấy Kite xé trang giấy mình vừa viết khỏi sổ và reo lên.

Anh đứng bật dậy và hất mặt về phía đồng hồ, đằng xa ông Brandy cũng đang lật đật chạy lại. Tôi sực hiểu ra là đã đến giờ nghỉ trưa. Người đồng nghiệp của tôi kéo cánh cửa lớn lại, ông lão thì đến phòng kĩ thuật để dập tắt điện. Trong lúc bối rối, tôi xếp mấy cái ghế và chỉnh lại một vài món đồ lưu niệm bày trên quầy cho có việc.

Ông Brandy thì rảo bước về hướng thư viện, có vẻ như ông có hẹn với ai đó để ăn trưa vì tôi thấy phía bên kia đường cũng có một người đang đứng. Kite hướng về phía trung tâm thành phố với tôi. Anh không nói rõ mình đi đâu, nhưng một lúc sau thì tôi biết là bưu điện. Anh gửi tờ giấy mà mình hí hoáy cả sáng đi đâu đó rồi rủ tôi đi ăn.

“Anh muốn ăn gì đặc biệt không?”

“À, tôi muốn thử món anh vẫn ăn mỗi trưa.”

Kite có vẻ vui với câu trả lời của tôi, anh bước nhanh hơn và tôi cũng vậy. Chúng tôi đến một xe bánh ở đầu phố và Kite mua hai chiếc bằng tiền của mình. Cái xe tuy nhỏ nhưng có tận hai người làm, quán khá đông khách. Sau đó, chúng tôi ngồi lại trên một chiếc ghế đặt gần đó và bắt đầu ăn.

“Anh có thể hỏi, tôi sẽ trả lời.”

Kite nói khi cái bánh của tôi đã hết gần một nửa. Tôi nuốt vội nốt miếng mình mới cắn, chậm lại để cân nhắc. Tôi có nên hỏi anh về cô Vellington không? Điều này có vẻ không liên quan đến công việc lắm. Cái thứ mà anh viết và gửi đi thì có vẻ liên quan nhiều hơn.

“Anh viết cái gì lúc nãy đấy?”

Tôi xác định lại là mình tới đây để làm việc chứ không phải để soi mói. Tôi đã hỏi câu hỏi đáng để hỏi hơn dù tôi tò mò về cái kia không kém.

“Một câu chuyện ngắn cho tờ “Tiên tri”. Đây là một trò rất vui, anh nên thử đấy.”

Kite bật cười, có vẻ anh thực sự tận hưởng thứ này. Nhưng theo những gì tôi được biết, “Tiên tri” là một tờ báo lá cải có tiếng hẳn hoi, nó có độ tin cậy rất thấp và danh tiếng thì khá tồi. Tôi không nghĩ Kite có thể làm bất cứ thứ gì với nó.

“Ngoài tờ “Tiên tri”, ở thành phố này còn rất rất nhiều những trang báo khác nhau, có rất nhiều biên tập khác nhau, nhưng tất cả hầu như chỉ viết về một vài tin. Tờ nào có tin sớm thì đắt khách, tờ nào có tin muộn thì ít khách hơn nhưng chắc chắn những tin sốt dẻo sẽ được tất cả các báo đăng, dù sớm hay muộn. Anh biết nó nghĩa là gì không?”

“Vụ án hôm nay sẽ được mọi báo đăng? Và ý anh là các tờ báo có thể đăng lại… hoặc sao chép tin của nhau?”

“Chính xác, dù tờ “Tiên tri” có tồi thế nào đi chăng nữa, sẽ luôn có những tờ báo ăn cắp nội dung của nó, khai thác nội dung từ nó. Nhưng thực ra tờ “Tiên tri” không tệ đến vậy đâu, ít nhất là bài tôi vừa viết sẽ gặt hái được kha khá.

Tôi viết về chính kịch bản tôi muốn bên cảnh sát xác định được từ vụ án. Đúng như anh nghĩ, tôi đã kể một cách ám chỉ về mối tình của một người phụ nữ với một tay võ sĩ, và về việc tay võ sĩ ấy tồi đến mức bị người ta thuê băng đảng xử lý. Tôi đã để tất cả nhân vật không có tên, xóa bớt những chi tiết rõ ràng, tạo ra một câu chuyện bóng gió.

Nhưng rồi sẽ có người thấy mối liên quan của nó với vụ án hiện tại, sẽ có những tờ báo khác ngoài “Tiên tri” tự dựng ra giả thuyết từ câu chuyện này, ăn cắp nội dung của tờ “Tiên tri” và rồi sẽ có những cảnh sát bị ảnh hưởng bởi một câu chuyện vẩn vơ. Anh đã bao giờ nghe đến người hùng trong bóng tối, người thám tử bí ẩn luôn cung cấp thông tin về những vụ án khó chưa?”

“Tôi có nghe qua, tổ chức từng đối đầu với chúng ta đã bị giáng một đòn rất mạnh trong một vụ án. Nghe nói là được gợi ý bởi một bài…báo?”

Tôi chợt hiểu, sởn da gà, quay sang nhìn Kite với ánh mắt kinh hoàng. Anh ta là cái thứ gì vậy? Anh ta chính là người hùng của chính nghĩa trong mắt nhiều người đói thông tin sao? Đằng sau những mẩu truyện ngắn được đăng trên tờ “Tiên tri” lại chính là Kite?

Anh ta đã cung cấp đúng thông tin về những vụ án của phe đối thủ để chúng chịu tổn hại trong khi dùng chính uy tín đó để bao bọc cho mình, hướng những vụ làm ăn về cái hướng mà anh ta muốn. Người đàn ông ngồi cạnh tôi, kẻ mà đang nhai cái bánh giá 15 đồng lại đủ sức để đánh sập cả một tổ chức đối thủ và được coi là chính nghĩa ngay khi đang thực hiện việc ác.

“Nào, đừng bất ngờ vậy chứ, hãy bất ngờ khi những lời bàn tán ngày mai không nói về câu chuyện đăng báo của tôi. Đứng dậy thôi, ngồi lâu nữa người đông lắm.”

Kite vo tờ giấy gói bánh rồi vứt nó vào sọt rác. Tôi cố nuốt nốt chỗ cuối cùng rồi phủi tay, đứng dậy, đi theo anh ta. Đúng là sơ sểnh thôi là có thể bị đánh lừa ngay.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận