Súng, tro cốt và âm binh...
Nguyễn Văn Mười, Bé Vỉa Tôm Chiên Kùwu
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

The First Booklet: God, gunpowder and The Superpowers

Chương 13: Royal n' Loyal

0 Bình luận - Độ dài: 5,208 từ - Cập nhật:

Hoàng Cung, một tòa thành xa hoa và tráng lệ theo phong cách Á Đông. Nằm chính giữa khu phức hợp Phụ Hồ, cùng với các cơ quan trực thuộc chính phủ, là một trong những công trình mang tầm vóc quốc gia. Bên cạnh là nơi sống và làm việc của Diêm Vương, đây cũng chính là Phủ Thủ tướng, với Quốc - người đang nắm giữ quyền lập pháp và hành pháp tuyệt đối và nội các của ngài đứng đầu.

Nhìn từ trên cao, Hoàng Cung chẳng khác nào một ốc đảo lọt thỏm trong lòng thành phố Hải Mộ, với hai con đường cắt ngang qua tạo thành bốn lối ra vào. Thế của thành lũy này sừng sững giữa hồ nước mặn lớn nhất cả nước, nơi long mạch hội tụ, vững bền tựa bàn thạch đến ngàn đời. Màu đỏ tươi của gạch ngói bao trùm khắp phần trên của Hoàng Cung, uốn lượn như những con rồng đang bay lên trời xanh. Những bức tường được xây bằng bê tông cốt thép rắn chắc càng tôn thêm cái vẻ kiên cố và oai nghiêm của nó. Nhưng nổi bật nhất vẫn là tấm bảng ghi bằng Hán tự cổ truyền “Hoàng Cung Vương Quốc Âm Phủ” đặt ở cổng phía Bắc, thứ biểu trưng cho sức ảnh hưởng và quyền lực không thể phủ nhận từ bao đời nay của kẻ kiến tạo nên thế giới linh hồn.

Là đầu não của quốc gia nên nơi này được canh gác rất nghiêm ngặt. Bản thân Hoàng Cung đã được bảo vệ bằng thành lũy tự nhiên, song chừng ấy vẫn là chưa đủ nếu so với chức năng của nó. Lấp ló sau tấm bảng khổng lồ là hai xạ thủ bắn tỉa sẵn sàng hạ gục bất cứ kẻ tình nghi nào. Để hỗ trợ, một đội cảnh vệ hoàng gia và bốn chiếc đèn công suất lớn luôn luôn trong tình trạng túc trực và để ý đến mọi thứ xung quanh. Ngoài ra, còn có bốn khẩu phi pháo ở các lối ra vào nhằm phòng thủ, đồng thời cũng được sử dụng trong các nghi thức truyền thống.

Trong tổng số ba mươi gian phòng, có vị Tổng Tư lệnh Cảnh sát Hoàng gia đang thong dong trên hành lang chính. Mắt anh ta không thèm để tâm tới những miếng gạch mạ vàng lát trên tường, hay các bức họa nổi tiếng giá triệu đô, mà chỉ chú tâm tới tấm thảm đỏ trải dưới chân. Không ngoa khi nói rằng đây là nơi xa hoa và lộng lẫy nhất Vương Quốc Âm Phủ, xứng đáng làm điểm tựa cho bậc đế vương muôn đời. Dưới cặp mắt soi mói của người thường, rất có thể họ sẽ cho rằng đây là một quan thầy liêm khiết, chính trực và không màng danh vọng. Tuy nhiên, thực tế thì luôn khiến người khác phải trầm trồ…

“Ôi tía má ơi, mệt rũ người mà vẫn phải đi họp. Có thứ gì khủng khiếp hơn điều này không?”

Sớm thôi, lông mày của Đại đã cong xuống, như thể muốn hát ru cho đôi mắt khép lại vậy. Thành thực mà nói, không có gì tồi tệ hơn việc bị triệu tập tới Hoàng Cung vào giữa đêm. Cuộc đời vốn dĩ bất công, nhưng rất công bằng với những sự việc xảy ra xung quanh chúng ta. Trong khi hai cô vợ đáng yêu của Đại đang say giấc nồng tại gia, thì anh lại phải chạy tụt quần đến đây.

Mặc dù đây đã là lần thứ mười Đại vào đây, nhưng anh vẫn chưa thể thuộc hết được đường đi lối lại. Do đó, anh đã lưu bản đồ của chốn cung cấm này vào thẳng điện thoại của mình, tiện cho việc dò phòng.

Khi bước chân đến ngã tư, người đứng đầu bộ máy cảnh sát bỗng dừng lại. Anh hết chau mày rồi chuyển sang nhìn ngang ngó dọc, đầu cố gắng nhớ lại những lần vào cung điện trước đó. Đáng ra Đại đã có thể dùng điện thoại, nhưng dù sao thì não bộ vẫn đáng tin cậy hơn nhiều. Quả nhiên, sau khi chọn đi thẳng, chàng trai đã đặt chân đến một cánh cửa lớn, có đóng biển quy định bằng Hán tự bên cạnh.

“Hừm, xem ra mình đến có vẻ hơi sớm. Mà thôi, vào ngồi nghỉ chút, tiện thể tán gẫu chút.”

Đại giở điện thoại ra xem giờ rồi lại cất vào túi áo. Sau đó, anh mở tung cánh cửa một cách dứt khoát.

“Ồ, chào Tổng Tư lệnh Cảnh sát! Anh có vẻ bảnh bao hơn thường ngày đấy.”

Trong khán phòng được xây dựng theo kiểu sân khấu kịch trung học, một loạt các nhân vật thuộc hàng chóp bu quay ra nhìn Đại với ánh mắt của những con sói già lọc lõi. Từ Bộ trưởng Bộ Nội vụ, giám đốc RDPSS, tướng Không quân Nguyễn Hồng Phúc - người đi họp thay cho Tổng Tư lệnh quân đội cho tới một số người làm việc trong chính quyền thành phố Hải Mộ. Ngoại trừ hầu hết mọi người trong phòng thì có tướng Phúc là từng làm trong cảnh sát đường không của chế độ cũ.

Chàng trai trẻ Đại bắt tay từng người một rồi ngồi xuống hàng ghế cao nhất, chân bắt thành hình chữ ngũ. 

“Vâng, cảm ơn các bậc tiền bối. Lâu lắm rồi chúng ta mới ngồi với nhau như thế này nhỉ?”

Tướng Phúc liền quay sang đáp.

“Bậy bậy, mới tháng trước chúng ta còn gặp nhau mà. Ôi dào, trí nhớ của giới trẻ hiện giờ chán thật đấy.”

Đại cười trừ cho bớt ngượng rồi yên vị tại chỗ ngồi của mình. Khán phòng dù khá rộng rãi và bài trí theo kiểu rạp chiếu bóng, song nó chỉ được sử dụng vào những dịp nhất định, mà phổ biến nhất là những buổi họp mặt như thế này.

Một lúc sau, nhân vật chính của buổi triệu tập giữa đêm hôm đã xuất hiện. Thủ tướng Quốc, trong bộ vest đen lịch sự, chầm chậm bước tới giữa sân khấu. Kiểu cười nhếch mép ấy thật khó coi làm sao. Mái tóc vàng chóe, dựng đứng trông như mấy thằng đầu đường xó chợ khiến vị nguyên thủ này chẳng khác nào một trò cười cho thiên hạ. Nhưng dù có nghĩ gì đi chăng nữa, đằng sau vị này còn có hai nhân viên khác cầm theo thiết bị thu âm và bảng trắng, cho thấy mức độ nghiêm túc của buổi họp ngày hôm nay.

Vào không giờ đêm, buổi họp chính thức bắt đầu. Theo nghi thức, thủ tướng cúi đầu chào toàn thể mọi người trong khán phòng, kèm theo lời xin lỗi vì đã phải triệu tập họ lúc ngoài giờ hành chính. Dù là buổi họp kín hay công khai, yếu tố trung thành và cái hồn của quốc gia vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Sau khi Quốc tới trước micro và giơ tay lên chào, tất cả các quan chức có trong khán phòng cũng đồng loạt đứng lên và làm điều tương tự.

“Vì Quốc vương và Đầy tớ, vì Tổ quốc muôn năm!”

Giọng của vài người đàn ông dội thẳng vào bốn bức tường. Ít phút sau, quốc ca và hoàng ca lần lượt được bật lên. Bốn chiếc loa bố trí sẵn ở mỗi góc cứ thế phát lên những giai điệu truyền thống của người Tnú, nhưng đủ sức hào hùng và bắt kịp xu hướng thời đại. Với tính cách sẵn có của một tình báo viên, Đại chỉ đơn giản là bỏ ngoài tai bài ca này.

Kết thúc màn nghi lễ hoành tráng, người nắm thực quyền cao nhất tại Vương Quốc Âm Phủ bắt đầu phần báo cáo của riêng mình. Hắn ta, dưới góc nhìn của Đại, cầm cây bút lông và viết lên bảng trắng những phân mục chính sẽ bàn luận ngày hôm nay.

“Kính thưa các ngài, các ngài có thể thấy rằng, chúng ta đã để mất tỉnh Uông Vệ vào tay của quân nổi loạn. Bên cạnh đó, một phần của các tỉnh miền núi cũng đã dần thất thủ và dần rơi vào tay của chúng. Điều khó chịu nhất mỗi khi tôi đọc báo cáo chính là phong cách đánh du kích của chúng. Kể cả khi quân đội có triển khai thủy quân lục chiến thì tỷ lệ thành công vẫn chỉ đạt xấp xỉ tám phần trăm.”

Thực ra thủ tướng chả phải loại người thích nghiêm trọng hóa sự việc, nên tất cả các viên chức cũng đã ngờ ngợ ra được mức độ nguy hiểm trong thời điểm hiện tại. Phần lớn bọn họ là dân bàn giấy, hiếm khi thực chiến nên chỉ nắm thông tin dựa trên các báo cáo gửi về từ chiến trường. Nhưng Đại thì còn lạ gì với phong cách làm việc của họ nữa. Ông thì ngủ quá giờ trưa ở tư dinh, ông thì sai nhân viên thụt két đi ăn bò dát vàng, được mỗi tướng Không quân Phúc là còn canh điện thoại từ Bộ Tổng tham mưu.

Chưa dừng lại tại đó, dù được giữ những chức vụ tối quan trọng, nhưng lý do được thăng cấp của những vị đang ngồi cạnh Tổng Tư lệnh Cảnh sát lại hết sức củ chuối. Nếu như Đại phải cực kỳ cố gắng, thậm chí là ra hàng với chính quyền của Quốc ngay từ đầu để được hưởng ưu tiên, thì các quý ông kia lại như có thêm đôi cánh vậy. Nịnh bợ và quà cáp, giày xéo những người thực sự có tài, bỏ bã rượu vào ruộng nương, tất cả đều đem ra áp dụng triệt để. Và rồi những gì họ phụng sự lại cho Tổ quốc thật như trò trẻ con đối với kẻ ngoại đạo.

“Chỗ anh em huynh đệ với nhau thì tôi cũng xin nói thật luôn, các vị đúng là tiên giáng trần. Không phải vì các vị cao siêu, mà vì các vị quá ra dáng ‘quý ông’, để rồi tạo nên những kỳ tích cho cõi giang sơn này.”

Câu khịa đến từ thủ tướng chẳng khác nào một nhát dao đâm xuyên tim tướng Phúc. Ông giận đỏ cả mặt, không phải vì mức độ ăn hại của các thuộc cấp, mà là bởi sự bất lực đến từ chính khả năng chỉ huy vốn có. Đại, người đã ngồi cạnh ông ta từ nãy tới giờ, cũng mường tượng được phần nào nỗi đau mà ông đang phải chịu. Sớm thôi, anh sẽ bị tế sống giống lão già ấy.

Kết thúc phân mục thứ nhất, Quốc chuyển qua phân mục tiếp theo, an ninh và xã hội. Đây chính là lĩnh vực do Đại kiểm soát hầu khắp, có một phần nhỏ do giám đốc RDPSS quản lý. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là mặc dù có nỗ lực tuyên truyền và nhắc nhở đến đâu, bộ máy an ninh ở các vùng sâu và vùng xa vẫn luôn ngoài tầm ảnh hưởng của Hải Mộ. Thậm chí, chương trình đào tạo cảnh sát của Hải Mộ và một số thành phố lân cận còn được xem là khó nhằn vì luôn tạo ra những học viên ưu tú và trung thành nhất cả nước.

Quốc è cổ một tiếng rồi tiếp tục phát biểu.

“Tổng Tư lệnh Cảnh sát Hoàng gia Đại, tôi phải thừa nhận rằng năng lực của anh rất xứng đáng với cái chức vụ hiện hành. Tuy nhiên, dường như anh vẫn chưa vận dụng được hết khả năng tiềm ẩn ấy. Vương quốc của chúng ta còn rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như ngay trong đô thành này thôi, có một số con sâu mọt ưa nhũng nhiễu và xin đểu tiền của dân.”

Dứt lời, vị nguyên thủ quốc gia lấy bút ra viết những dòng thông tin bằng ngôn ngữ của toán học. Những con số tưởng chừng như nhạt nhẽo và chán ngắt nay lại có sức thu hút đến lạ thường. Đứng trước tỷ lệ phần trăm là hai ký tự nói lên tiếng lòng của người dân về mức độ liêm khiết của bộ máy cảnh sát. Mặc dù kết quả khảo sát cho thấy tới sáu, bảy mươi phần trăm người được hỏi cảm thấy hài lòng, song đó chưa bao giờ là mức lý tưởng.

Xong phần số liệu rồi thì chuyển tới phần hình ảnh trực quan. Một máy chiếu gắn trên trần khán phòng được kích hoạt và chiếu ra những thứ khiến Đại phải sởn da gà. Trong đoạn phim kiểu giấu kín mà anh đang xem đó, có hai nhân viên cảnh sát hỏi và xin vay tiền của người quay. Mặc cho người đó có giải thích thế nào đi nữa, hai gã cảnh sát đó vẫn luôn mồm hứa, cho đến khi máu dồn lên não. Ở đỉnh điểm, một gã rút súng ra và đe dọa, ép nhân vật chính phải đưa vài trăm bạc để đi nhậu.

Sau khi đã trình bày xong phân mục thứ hai rồi, thủ tướng Quốc liền đưa ra kết luận.

“Như Tổng Tư lệnh Đại có thể thấy, bát canh trong vắt đã bị làm rầu bởi những thành phần sâu mọt. Lựa chọn thế nào là của anh, nhưng chắc chắn chúng sẽ phải hợp tình hợp lý. Và một lần nữa, xin cảm ơn giám đốc RDPSS đã cung cấp nguồn tư liệu quý giá này.”

Dưới Đại một hàng ghế, người đàn ông trung niên, nét mặt có phần hiền hòa đứng dậy và cúi đầu cảm ơn thủ tướng. Tuy có vẻ ngoài khá vô hại, song chàng trai hiểu lão này cáo già tới mức nào. Bởi lẽ, Phú đã kể tất tần tật rồi.

Đại biết mình sẽ phải phát triển bản thân và cả bộ máy an ninh này hơn nữa, nhưng không phải theo cách mà Quốc tưởng tượng. Thật khó để nghĩ ra phương thức chia rẽ nội bộ giới chóp bu sao cho hợp lý nhất có thể. Anh nghĩ, có lẽ bản thân sẽ bàn bạc với những người đồng đội, mà đáng tin cậy nhất là Giang và Phú.

Phân mục thứ ba: “Văn hóa - xã hội” bắt đầu bằng những bản báo cáo được chiếu công khai. Có vẻ như nguyên thủ của Vương Quốc Âm Phủ rất thích phần này nên đã chuyển từ chế độ “trầm tĩnh” sang chế độ “hoạt náo viên”. Mặc dù không chú ý mấy, song Đại vẫn phải dỏng tai lên mà nhập vào trong điện thoại. Nó không chỉ quan trọng đối với Phú - người đang là nhân viên thuộc hạng ưu tú, mà còn có ý nghĩa chiến lược đối với bản thân anh chàng nữa. Cổ nhân nói chẳng sai: “Ai làm chủ được nguồn thông tin, đó là kẻ chiến thắng”.

“Để mà nói thì chúng ta đã thành công trong việc bảo vệ nhân dân khỏi những tư tưởng xấu độc đến từ thế giới bên kia, dựng thành lũy vững chãi trước lời tiên tri nhảm nhí của tên Toàn quyền viên già cỗi và lú lẫn.”

Cũng phải thôi, Đại thầm nghĩ. Việc triển khai mạng lưới kiểm soát báo chí, tổ chức một bộ máy tuyên truyền có chủ đích đã tạo nên ảnh hưởng cho toàn cõi vương quốc này. Không quá khó để bắt gặp những tờ truyền đơn nói về sự vĩ đại của mảnh đất Âm Phủ trên đường phố. Giờ thì sau mười năm kể từ ngày lập quốc, ai cũng tin Diêm Vương là vị vua anh minh, chính trực và duy nhất của xứ sở người chết, còn đất nước láng giềng thực chất chỉ là một vùng tự trị.

Cuối cùng, sau một hồi chán chê thì thủ tướng đã tạm ngưng bài phát biểu. Vị này hấp tấp cầm lấy chai nước rồi tu một hơi thật sâu, đủ để cho mọi người trong khán phòng lẫn sau cánh gà hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nhưng vẫn chưa dừng lại tại đó, hành động tiếp theo của nguyên thủ quốc gia càng làm khán phòng trở nên xôn xao hơn.

“Thưa Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ngài có thể trình bày với mọi người trong bốn bức tường này về… cao kiến vĩ đại được không?”

Run run đeo cặp kính lão lên, vị bộ trưởng già dõng dạc đáp.

“Ồ, tất nhiên là được rồi, thưa ngài Thủ tướng. Vì Quốc vương và Đầy tớ, muôn năm!”

Trung tướng Không quân Nguyễn Hồng Phúc và Tư lệnh Cảnh sát Nguyễn Văn Đại nín thở lại mà nghe cho rõ từng câu chữ mà vị bộ trưởng kia chuẩn bị cất thành lời. Chỉ ba giây sau, điều ấy đã thành sự thật. Chất giọng khàn đặc do hút quá nhiều thuốc phiện và xì gà cao cấp được nâng âm lượng lên hết mức có thể.

“Do sự quấy phá đến từ lực lượng quân nổi dậy, nên chúng tôi đã đặt vấn đề trực tiếp với đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Âm Phủ nhằm tìm một giải pháp. Vừa hay là họ cũng đang bị quân phiến loạn quấy nhiễu nơi biên cương, nên đã đồng ý hỗ trợ về mặt an ninh và kinh tế. Và chúng tôi đã đạt được một thỏa thuận ngầm, hai tuần sau sẽ có phái đoàn đến để bàn bạc chuyên sâu hơn.”

Đến đây thì Đại đã phải ồ lên một tiếng. Anh không thể hiểu được vì lý do gì mà Huệ đã chẳng hề mảy may nói với mọi người, hay ít nhất là chính tư lệnh cảnh sát đây. Thực sự, tâm trạng của anh lúc này có hơi thấp thỏm. Liệu có nên đặt lòng tin tuyệt đối vào những người cộng sự lâu năm không?

Gạt chuyện riêng tư qua một bên, khi ngẫm nghĩ lại về phát biểu của Bộ trưởng, Đại cảm thấy có một vài điểm bất thường. Tại sao một đất nước luôn mồm kêu là hùng cường như Vương Quốc Âm Phủ đây lại phải muối mặt đi xin vũ khí để đánh lại đội quân do chính đối thủ nuôi? Hơn nữa, phong cách chính trị của nhà nước láng giềng cũng thật kỳ lạ, khi thì tuyên bố trung lập, khi thì tuyên bố chiến tranh lạnh. Thực sự, đến một điệp viên như anh cũng phải đau đầu vì trò chơi ú tim của mẫu quốc.

Bàn cờ địa chính trị quả thực chưa bao giờ khiến con người ta phải ngừng toát mồ hôi hột. Có lẽ những thằng xuất thân lông bông và xoàng xĩnh như mình chưa chắc đã thông hiểu được hết.

Mệt mỏi và cực khổ, đó là hai điều mà nội tâm của các điệp viên luôn muốn cất tiếng khóc. Vừa phải trung thành với quân địch, song vẫn luôn giữ vững niềm tin vào tổ chức đã đào tạo ra mình, trong khi tâm lý luôn luôn bị rối loạn. Dù là hồn ma hay có đầy đủ thân xác, cũng thật khó để cảm nhận rõ ràng tình yêu ấy.

“Hay lắm, hay lắm, đúng là cao kiến! Vậy ra bọn họ cũng đang bị chính đạo quân ô hợp mà mình nuôi quấy nhiễu à, đáng đời lắm! Nhân dịp này, chúng ta cũng sẽ nhuộm đỏ cả bầu trời chốn âm ti địa phủ!”

Thủ tướng Quốc vỗ tay bồm bộp, không ngớt lời khen ngợi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Vị nguyên thủ đánh giá rất cao kế hoạch lấy độc trị độc của ông ta, đến nỗi không che giấu được nụ cười khả ố đặc trưng.

Phải, vị nguyên thủ này đã sớm biết nguồn gốc của quân Cộng Hòa dựa trên tin tức do các gián điệp thuộc Quân Cận vệ Hoàng gia gửi về. Mặc cho quốc gia láng giềng có phủ nhận thế nào đi nữa, vương quốc vẫn luôn tuyên truyền rằng “lũ thổ phỉ” đó là sản phẩm của sự thiếu phước lành do Diêm Vương ban phát.

“Chắc chắn nửa còn lại sẽ thuộc về chúng ta, giang sơn sẽ thu về một cõi, hợp thể trở thành một nhà nước duy nhất mang tên Vương Quốc Âm Phủ. Những chiến binh dũng cảm nhất sẽ đứng ra bảo vệ cho nền quân chủ lập hiến này, đập tan mọi luận cứ của kẻ thù.”

Sau tràng cười không ngớt ấy, một quyết định mang tính chiến lược đã ra đời. Quốc tin rằng việc giao thoa văn hóa, kết hợp với mạng lưới truyền thông sẽ làm sai lệch nhận thức của giới trẻ cả hai nước về tình trạng chung, kết hợp thêm một số điệp viên đã được cài từ khi còn trứng nước nhằm tăng hiệu quả.

Đến tận bây giờ, Đại mới vỡ lẽ ra một điều. Từ trước tới giờ, anh đã luôn tự hỏi rằng tại sao Quốc lại không Bắc tiến trong thời điểm mà chính quyền cũ đã tan rã và gần như tê liệt từ trung ương tới địa phương. Và giờ thì câu trả lời đã hiện ra ngay trước mặt của chàng trai trẻ, một canh bạc mà trong đó sự nhẫn nại được ưu tiên hàng đầu.

Xem ra một trò chơi khác đã bắt đầu bên cạnh món truyền thống. Nó sẽ khó hơn gấp vạn lần, yêu cầu một khối óc thống nhất từ hàng trăm khối óc khác. Nhưng dù trời đất này có sao đi chăng nữa, Đại vẫn sẽ cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ dưới cương vị của tình báo viên. Trong một giây ngắn ngủi, anh chàng nắm chặt lấy tay vịn của ghế, hít thở thật sâu và ngẫm lại chuyến hành trình của cuộc đời mình.

Mọi thứ thật là khó khăn. Chẳng biết mình có nên chấp nhận số phận bị đồng hóa ngược không đây? Lựa chọn là thuộc về chính bản thân mình mà…

Nhưng rồi, trong đầu anh cảnh sát trẻ đã lóe lên một tia hy vọng.

Quay trở về với bàn cờ thực tại, Đại vội giơ tay lên để giành quyền phát biểu. Thấy vậy, thủ tướng cũng chỉ cười trừ rồi chuyển chiếc micro cho chàng trai tài năng này.

“Thực ra thì, tôi có một ý kiến bổ sung cho bản giao hưởng này. Tôi, đại diện cho ngành cảnh sát và tướng Phúc, đại diện cho lực lượng không quân đáng tự hào sẽ đến Lãnh sự quán và trò chuyện trước với ngài đại sứ. Lý do thì cũng xin được trình bày ngắn gọn: trong lịch sử phát triển của loài người, có những bậc thầy về chính trị đã lật ngược thế cờ nhờ sự tinh tế ‘thừa thãi’ đó.”

Vừa dứt lời, vị chỉ huy Không quân đã giật lên đùng đùng như thể bị động kinh. Thực sự, ông chẳng thể hiểu vì lý do gì mà Tổng Tư lệnh Cảnh sát lại tha lôi cả mình theo, nên chắc chắn sẽ khước từ lời đề nghị này. Tuy nhiên, vị tướng biết rằng việc phản bác ngay lúc này sẽ làm thủ tướng không thấy vui, từ đó làm giảm mức độ tín nhiệm.

Song, những gì mà người cầm quyền đất nước đáp lại đã làm cho tướng Nguyễn Hồng Phúc phải méo mặt.

“Ý tưởng hay đấy. Được, tôi phê chuẩn cho sự tinh tế ‘thừa thãi’ này. Tất cả những gì mà Tư lệnh Cảnh sát nêu ra sẽ phải được hoàn thành một tuần trước khi phái đoàn của quốc gia láng giềng đến.”

Vậy là lão tướng này sẽ phải vác xác đến tòa đại sứ cùng với một vị tướng cảnh sát trẻ măng mà chính ông thường xuyên cho là “không đủ tư cách” và “còn quá non nớt”.

Không có lửa thì làm sao có khói. Với Đại, chẳng có lý gì mà không cài cắm thông điệp gửi sau ý tưởng đó. Rõ ràng, trong cái câu nói đó đã có hàm ý muốn đưa Trung tướng Nguyễn Hồng Phúc lên bảng đếm số rồi. Một khi đã có sự phê chuẩn đến từ thủ tướng, thì việc đó chắc chắn đã được sắp xếp thành công.

Thủ tướng Quốc tự tay xóa bảng trắng rồi ra lệnh cho đội nhân viên sau cánh gà thu dọn. Bằng phong cách trịnh trọng của mình, vị nguyên thủ quốc gia cúi chào trước toàn thể những quan chức đang tham dự buổi họp ngày hôm nay.

“Xin cảm ơn tất cả các quý ngài đã không quản khó khăn để đến đây nghe tôi trình bày. Chi tiết và phần việc sẽ được tôi gửi sau, còn giờ thì mời quý vị bước ra cửa phía sau khán phòng.”

Và thế là buổi họp đã kết thúc. Tất cả mọi người đồng loạt đứng dậy và lật đật đi về phía cửa, riêng Đại và tướng Phúc thì vẫn ngồi nhìn sân khấu trống huếch trống hoác.

“Thế nhé, hẹn ông vào ngày chủ nhật. Hy vọng ông uống đủ rượu và chơi gái điếm cho chán chê đi, tránh lên cơn lại khổ.”

Đại nhìn vị tướng hơn mình mấy chục tuổi bằng cặp mắt khinh bỉ rồi bước đi khỏi khán phòng đầy kiêu hãnh. Song cử chỉ này không hề gây ra chút sự khó chịu nào đối với tướng Phúc, bởi ông hiểu “thằng nhóc” này đang cay cú tới mức nào.

Trên hành lang bộ trải thảm đỏ rộng lớn, Đại bước đi đầy cô độc, không thèm ngó nghiêng gì. Rồi anh rút điện thoại ra gọi cho điệp viên Coma, nguyên đại sứ đến từ quốc gia láng giềng.

“Alô?”

Ở đầu dây bên kia, Huệ đáp lại với chất giọng ngái ngủ.

“Chào ngày mới, quý cô đại sứ. Vẫn đang ngái ngủ trong chiếc chăn lông ngỗng à?”

“Dĩ nhiên là không rồi, tại tôi đang phải đánh báo cáo gửi về cho Bộ Ngoại giao. Ba tuần nữa thôi là sẽ có hội nghị đàm phán rồi, nên khối lượng công việc cũng tăng mạnh. Chắc là đến bốn hoặc năm giờ sáng tôi mới đi chợp mắt được…”

Đến đây thì Huệ ngắt quãng. Đại có thể nghe thấy tiếng lách cách của bàn phím cùng âm thanh leng keng của cốc chén. Sau một hồi giữ máy, vị đại sứ bắt đầu lân la hỏi chuyện anh tư lệnh cảnh sát.

“Thế, ngài sĩ quan đây gọi tôi có việc gì?”

Không lòng vòng thêm một giây nữa, Đại đi ngay vào vấn đề chính.

“Tôi muốn đặt một đội sát thủ trong tòa đại sứ với nhiệm vụ trừ khử tướng Không quân Nguyễn Hồng Phúc. Tiền bạc thì tôi sẽ chuyển ngay trong buổi sáng nên khỏi phải lo.”

“Được thôi, anh muốn hạ gục theo phương thức gì, bao nhiêu người?”

Vừa trả lời điện thoại, Huệ vừa nghĩ tới những kiểu thủ tiêu như bắn chết rồi bỏ xác vào trong thùng axit. Song yêu cầu mà Đại đưa ra lại đơn giản đến bất ngờ.

“Hai, ba người thôi là đủ. Tôi cần một loại chất độc nào đó có thể tiễn đưa ông ta sau một khoảng thời gian, đủ tinh vi để ngụy tạo một vụ qua đời đột ngột.”

“Ừ hứ, tôi hiểu rồi.”

Huệ vừa ghi vào trong cuốn sổ bỏ túi, vừa gật đầu lia lịa. Mặc dù đã triển khai dịch vụ cho phép các điệp viên thuê sát thủ từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên Lãnh sự quán nhận được một đơn hàng đúng nghĩa. Chính vì điều đó nên Huệ ghi chép rất cẩn thận và tỉ mỉ, tránh xảy ra sai sót sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường.

Cuối cùng, sau khi nhận được sự xác nhận đơn hàng của Đại, Huệ liền cúp máy và tập trung cho phần việc còn dang dở.

Trong khi đó, Đại cũng đã xuống tới bãi đậu xe của Hoàng Cung. Nếu đúng ra thì đây cũng chẳng phải khu trông phương tiện, bởi nó quá màu mè. Ánh đèn điện sáng trưng bao phủ khắp một khoảng sân chừng hai trăm mét vuông. Bên cạnh chiếc Corolla cũ kĩ của Tổng Tư lệnh Cảnh sát Hoàng gia là những con xế hộp sang trọng, đeo toàn biển cao cấp như “ngoại giao” hay “quân đội”. Mặc dù có phần hơi ghen tị, song Đại vẫn mỉm cười cho mức lương hiện tại của mình, mong rằng nó sẽ tăng lên vào một ngày đẹp trời nào đó.

Sầm. Cánh cửa đóng lại, để bao nỗi ưu phiền và mệt mỏi bao trùm lấy Đại. Chàng trai đã tạm thời xử lý xong chuyện tiễn đưa tướng Phúc, song vẫn chưa thể nguôi ngoai sự lớn mạnh của mạng lưới gián điệp trong lòng mẫu quốc. Đó là nguyên một tổ chức đang lớn mạnh, ngày ngày bóc rễ và đục khoét đất nước đã tái sinh anh. Chàng trai đã hứa dành trọn cả đời mình dưới màu cờ Tổ quốc, vậy mà giờ phải khoanh tay đứng nhìn lũ phản động âm mưu lật đổ chính quyền.

Là một nhà tình báo chiến lược, Đại hiểu hơn bao giờ hết về các phương thức đấu tranh chính trị. Đó không chỉ là một cá nhân hay tập thể, mà là cả một hệ tư tưởng. Nên dù có giăng lưới tới đâu thì cũng khó lòng bắt được hết tất cả, có khi còn lây lan qua đường truyền miệng nữa.

Nỗi ám ảnh cứ ngày một dày vò tâm trí của nhà tình báo trẻ tuổi.

Anh sĩ quan đặt tay lên cần phanh, thừ người ra. Liệu có một nhân vật nào đủ xuất chúng để đối phó với đám thù trong giặc ngoài ấy không?

“Thôi được rồi, đã đến nước này thì phải tung ra con át chủ bài này vậy.”

Không sai, quân bài mà Đại dự định sẽ tung ra, không gì khác chính là Phú. Một nhà báo gần như hoàn hảo, nên sẽ rất khó để có thể bị lộ. Hơn nữa, đây cũng là dịp để kiểm tra kinh nghiệm thực chiến của đội sát thủ do Phạm Huy đứng đầu, nên anh cũng đưa nó vào bản giao hưởng được sáng tác bởi chính mình.

Tút, tút, tút. Tràng dài tiếng chuông chờ điện thoại ngân lên. Vào ngày định mệnh ấy, bản danh sách của Schindler đã gạch bỏ rất nhiều cái tên.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận