Sâu tít bên trong một khu rừng nọ, cách xa khỏi sự dòm ngó của loài người, có một ngôi làng nhỏ bé không tên với dân số vào khoảng một trăm. Những người dân ở nơi đây đều mặc những bộ trang phục nhuộm màu cỏ và sinh sống nhờ vào những loại quả và hạt từ những cái cây gần nhà.
Những cư dân tại đây không phải loài người. Không, họ là những người Lilliput tí hon chỉ vừa bằng lòng bàn tay của con người. Mặc dù tiểu tiên (fairy) cũng bé nhỏ như vậy, họ lại có những đôi cánh giúp họ bay rất xa và thường xuyên tiếp xúc với con người. Những người Lilliput, ngược lại, thường sinh sống quây quần trong những ngôi làng nhỏ và hiếm khi giao du với các chủng tộc khác. Những người Lilliput này cũng vậy, họ gần như không tiếp xúc với con người ngoại trừ một bà phù thuỷ già sinh sống một mình trong khu rừng. Họ trao đổi dược liệu như các loại quả và hạt với bà, và nhận lại các miếng kim loại khác nhau để rèn đúc. Ngoài người phụ nữ đó, họ chỉ tiếp xúc với duy nhất một con người khác thôi.
Hầu hết những người Lilliput đều sinh ra và lớn lên tại làng, và đương nhiên rồi cũng sẽ mất đi tại đó. Lối sống của những con người bé nhỏ này thực ra khá giống với loài người.
Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều mong chờ cái ngày đến mỗi bảy ngày đó. Kể cả những người đàn ông luôn chăm chỉ làm việc, những người phụ nữ luôn bận bịu với việc nhà, và thậm chí cả những đứa trẻ đang tuổi chơi đùa cũng gác lại hết hoạt động của mình để tụ họp lại tại một địa điểm.
Địa điểm nào ư? Nhà ăn của Thế giới Khác. Đối với những người Lilliput, ngày này quả thực là một lễ hội.
Vào ngày họ cùng đến làm khách tại nhà hàng, tất cả người Lilliput trong làng sẽ tập hợp tại một khoảnh đất nhỏ sâu trong rừng, cách ngôi làng một quãng ngắn.
“Được rồi! Móc được nó rồi!” Một thanh niên trẻ, tay trèo cây cừ khôi nhất của làng, sử dụng một đoạn dây thừng làm từ dây leo để buộc chặt phần màu vàng trồi ra từ cánh cửa. Sau đó, cậu ta thông báo với những người đàn ông khác đang đứng đợi ở dưới. Bởi vì cánh cửa đen không có chỗ để bám, leo lên nó là một việc khá khó khăn. Mặc dù cũng có kha khá người có thể trèo lên được tới phần trồi ra màu vàng trên cánh cửa, hầu hết mọi lần anh thanh niên đây đều đảm nhận nhiệm vụ này.
“Được rồi! Mọi người ơi, chuẩn bị kéo nào! Hây, dôôô!!”
“HÂY, DÔÔÔ!” “HÂY, DÔÔÔ!” “HÂY, DÔÔÔ!”
“Cố lên bố ơi!”
“Một chút nữa thôi!”
Dưới cơn mưa những lời hò reo cổ vũ từ ông trưởng làng, đàn bà, và trẻ nhỏ, những người đàn ông hừng hực khí thế cùng nhau kéo sợ dây.
Chậm mà chắc, và rồi bức tường đen bắt đầu hé ra. Từ đằng xa, có thể thấy khá rõ rằng đó là một cánh cửa có hình vẽ của một con mèo. Không giống như những chủng tộc to lớn khác, chỉ một hành động đơn giản như mở cánh cửa này ra cũng cần sự đoàn kết, tập trung rất lớn của những cá nhân tương đối yếu ớt như người Lilliput. Thách thức này đòi hỏi đàn ông trai tráng trong làng phải đồng sức đồng lòng kéo cánh tay nắm cửa sử dụng một cuộn dây thừng do họ đan nên.
“Được rồi, chúng ta mở được nó rồi! Mọi người, vào trong nhanh lên!”
Sau khi xác nhận rằng cánh cửa đã mở đủ rộng và căn đúng thời điểm, trưởng làng ra hiệu cho những dân làng tiến vào bên trong. Họ tuân theo lệnh của ông, từng người một lần lượt tiến vào, ban đầu là những người già và những người phụ nữ đang cho con bú. Sau đó là những đứa trẻ đã đủ lớn để tự đi được. Và cuối cùng là những người đàn ông. Một khi tất cả mọi người đã vào được bên trong nhà hàng, cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ và biến mất. Khu rừng trở về với trạng thái yên bình vốn có của nó.
Căn phòng các Lilliput vừa bước vào được thắp sáng bởi một thứ ánh sáng có màu khác so với ánh sáng trong khu rừng. Sau khi di chuyển đến góc căn phóng, họ nghe thấy một giọng nói vọng xuống từ tít trên cao.
Xin chào.
Giọng nói lớn này đến từ người chủ khổng lồ của nhà hàng nơi đây. Người đàn ông to lớn này đã quá hiểu rằng khi cánh cửa nhà hàng chỉ mở hé ra như vậy tức là những con người tí hon đã đến.
Ông đi về phía bếp và quay lại với một cái khay vốn được dùng để mang thức ăn. Bên trên nó là một chiếc khăn ẩm được gấp gọn gàng. Ông hạ nó xuống sát sàn nhà và nói với những vị thực khách bé nhỏ của mình.
Xin mời leo lên đây. Tôi sẽ đưa các bạn về chỗ ngồi.
Những người Lilliput đã quen thuộc với chuyện này và ngay lập tức nhảy lên cái khay.
Chúng ta đi nào!
Sau khi khoàng một nửa dân làng đã leo lên và cái khay đã chật kín, ông chủ mang họ đến một chiếc bàn trống.
“Whoooaaaa! Tuyệt quá!”
“Ahh! Ngã mất thôi!”
“Nào lại đây, lau sạch tay và giày của con đi. Con sẽ không được xuống nếu không sạch sẽ đâu.”
Những người tí hon đột ngột nhận ra mình đang được nhấc bổng lên trời. Những đứa trẻ thích thú ngắm nhìn những chủng tộc to lớn như ông chủ đây đang thưởng thức bữa ăn trong khi những bà mẹ nhắc nhở chúng một cách vất vả. Mọi người đều lau sạch tay và chân vào chiếc khăn ướt khổng lồ được đặt trên khay trước khi đến được bàn ăn của họ. Những người đã sạch sẽ lần lượt rời khỏi cái khay và leo xuống cái bàn bên dưới.
Tôi sẽ quay lại để đưa nốt những người còn lại đến.
Ông chủ mang cái khay quay lại cửa ra vào và đưa về bàn nốt chỗ dân làng còn lại.
Các bạn vẫn ăn như mọi khi chứ? Ông hỏi.
Sau khi đã chắc chắn rằng mọi người đã đông đủ, ông chủ xác nhận đơn gọi món. Nhóm người tí hon đồng loạt gật đầu. Đó cũng là lúc cô gái xinh đẹp nhất làng, con gái của trưởng làng, bước về phía trước trong một chiếc váy xinh xắn. Trên tay cô là một đồng bạc lớn với khuôn mặt của một ai đó ở trên. Người Lilliput đã kiếm được thứ này bằng cách trao đổi các loại hạt và quả với bà phù thuỷ trong khu rừng. Thông thường, những thợ rèn ở trong làng sẽ sử dụng nó để tạo nên dụng cụ làm bếp hoặc các công cụ khác. Tuy nhiên, họ đã có một giao kèo với ông chủ cũ của nơi đây rằng cứ hai lần một tháng, họ sẽ đưa cho ông ta một đồng tiền như thế này.
Xin cảm ơn rất nhiều. Món ăn sẽ ra ngay.
Ông chủ nhặt lấy đồng tiền lớn bằng ngón trỏ và ngón cái, rồi quay vào trong bếp. Ông sau đó sẽ bắt đầu chuẩn bị món ăn yêu thích của họ.
“Wooooow! Xem chúng ta đang ở cao chưa này!”
“Nó tooooo quá!”
“Dừng lại ngay! Nguy hiểm đấy! Sẽ ra sao nếu con ngã đây?!”
“Huh, ông nói là hồi trước ngôi làng còn bé hơn nữa sao?”
“Đúng thế. Trước khi cánh cửa này xuất hiện, dân số của làng có lẽ chỉ bằng nửa hiện giờ thôi.”
“Ông nghĩ những người chuyển đến đây sinh sống có ổn không?”
“Tôi cá là có. Tôi có thoáng thấy họ đợt trước. Họ mặc quần áo của thế giới bên ngoài, nhưng tôi khá chắc chính là họ đấy.”
Các Lilliput dành thời gian chờ đợi món ăn để làm đủ các thứ. Những người mẹ theo dõi những đứa trẻ để đảm bảo chúng không ngã khỏi bàn, trong khi những người lớn khác bàn tán về những tin đồn mới nghe được. Thông thường thời gian chờ món ăn cũng không lâu nhưng chỉ những suy nghĩ về vị ngon ngọt của nó thôi cũng khiến họ sốt ruột hơn bình thường.
Cuối cùng, ông chủ quay lại với món ăn trên tay.
Món ăn của các bạn đây. Một phần bánh kếp.
Một tiếng “cạch”, ông chủ đặt một đĩa bánh kếp to bự xuống giữa cái bàn. Được xếp xuống gần đó là ba chiếc lọ sứ cỡ bằng những chiếc xô, chứa đầy ba loại si rô ngọt khác nhau. Những con người tí hon reo hò một cách vui sướng; sau cùng thì bữa đại tiệc này cũng chỉ đến một lần mỗi bảy ngày thôi. Chính đĩa tráng miệng mềm, xốp này là thứ khiến họ phải rời bỏ công việc mỗi ngày của mình để đến nhà hàng mà.
“Oh, Ông chủ! Xin thứ lỗi, nhưng ông có thể cắt nó ra cho chúng tôi không?”
Vị trưởng làng hét to lên để nhờ ông chủ nhà hàng. Nếu ông không làm như vậy, giọng nói bé nhỏ của ông sẽ chẳng thể nào lọt được đến tai của người đàn ông khổng lồ kia.
Aye, được chứ!
Ông chủ gật đầu, phết miếng bơ ở trên ra đều miếng bánh kếp bằng dĩa rồi lấy dao cắt nó thành những phần ăn vẫn còn thừa lớn đối với người Lilliput. Mùi thơm của bơ và bánh kếp toả ra khiến cho những người dân làng muốn rỏ dãi.
Xin mời tự nhiên thưởng thức. Tôi sẽ mang phần thứ hai ra khi các bạn gọi.
Và ngay giây phút ông chủ kết thúc câu nói của mình, những người Lilliput reo mừng vui sướng và lao vào đĩa bánh kếp.
Đương nhiên, họ có hẳn một hệ thống dành cho việc này. Nó đảm bảo rằng mọi người đều được ăn một lượng bánh kếp bình đẳng và công bằng. Đầu tiên, có một số người có nhiệm vụ phân phát bánh kếp. Những “nhân viên” nhỏ bé này sẽ lại gần chiếc đĩa và chuyển các phần bánh kếp ra cho dân làng. Việc này nhằm tránh những vụ ẩu đả do sự tranh giành phần ăn giữa dân làng. Nếu chuyện đó xảy ra, những đứa trẻ nhỏ sẽ phải chịu thiệt thòi nhiều nhất. Bằng một hệ thống đa tầng thế này, họ có thể ngăn ngừa sự cố đó khỏi xảy ra.
Thỉnh thoảng, những “nhân viên chia bánh” sẽ liếm một chút bơ rớt trên tay hoặc bốc một vài miếng vụn bánh kếp sót lại trên đĩa. Đây được coi như là một lợi ích đi kèm của công việc này.
Chỉ một ít Lilliput ăn miếng bánh kếp của mình ngay khi được nhận. Hầu hết những người tí hon này sẽ hướng tới những chiếc xô chứa đầy sirô ở gần.
“Tôi muốn thêm! Cho tôi thêm đi! Đừng có bủn xỉn thế!”
“Nào, nào. Nếu ông lấy nhiều thế thì hết mất! Chúng tôi cũng cần mang một ít về, okay?”
“Này, làm cái gì đấy?! Rưới cả sốt nâu và sốt đen là cực kỳ không công bằng nhé!”
“Ah! Không công bằng! Ai cho cậu ăn cái quả đỏ!”
“Oh, thôi nào. Có gì to tát đâu.”
Những dân làng bé nhỏ xếp hàng trước cái xô si rô họ chọn được quản lý bởi những người phụ nữ trong làng. Những “nhân viên chia si rô” này rất thành thạo với nhiệm vụ của mình, họ sử dụng những chiếc chổi đặc biệt mang đi từ nhà để quét si rô lên những phần bánh kếp. Có ba loại si rô khác nhau để dân làng lựa chọn: loại màu nâu cực kỳ ngọt được gọi là “maple[note23850]”, loại màu đen có chút vị đắng tên là “chocolate”, và loại “mứt” có vị ngọt và chua được nấu từ những trái dâu đỏ và đường.
Thông thường, một khách hàng được quyền yêu cầu một loại si rô để ăn kèm với bánh kếp, nhưng vì những dân làng lại chia ra thành các ý kiến lựa chọn khác nhau, họ đã hỏi ông chủ nhà hàng xem ông ta có thể mang cho họ mỗi loại một ít không. Chỉ khi đó họ mới chia được bánh kếp và si rô để thoả mãn hết mọi người.
“Hoàn hảo! Mọi người đều có phần rồi chứ?”
Sau khi xác nhận rằng tất cả dân làng đều đã có phần, những bà nội trợ bắt đầu rót đầy si rô vào những cái hũ mang từ nhà đi. Đây là một trong số những lợi ích có được khi phụ trách nhiệm vụ phân chia si rô. Họ được phép cho những phần si rô còn thừa lại vào những cái hũ và lọ được đem đi từ làng và mang chúng về nhà. Đương nhiên, đó sẽ là vấn đề nếu họ ăn bớt phần si rô chia cho mọi người chỉ để mang về nhà nhiều hơn.
“Heehee, chừng này ăn với bánh mỳ còn hơn cả đủ ấy chứ. Chúng ta sẽ được ăn uống xa hoa ít lâu đấy!” Một bà vợ Lilliput cười tươi trong khi vuốt ve cái lọ si rô maple đầy ắp.
Món si rô của ông chủ cũng ngon y như bánh kếp của ông, nên chỉ cần phết một ít lên trên bánh mỳ thường đã đủ để khiến nó ngon hơn rất nhiều. Việc ngôi làng nhỏ bé của họ không có tên tuổi và cũng không nổi tiếng gì cũng có cái lợi riêng của nó.
“Giờ mọi người đều đã có phần...”
Ông trưởng làng kiểm tra lại lần nữa để đảm bảo ai ai cũng đã nhận được phần bánh kếp ấm xốp cùng si rô rồi nói với dân làng.
“Xin gửi lời tạ ơn đến Vị thần Đất đai vĩ đại vì bữa ăn thịnh soạn này. Ăn thôi!”
Và rồi trưởng làng cắn vào miếng bánh kếp của mình. Một hương vị ấm ngọt bùng nổ khắp khoang miệng ông. Si rô maple tương đối bình dị, ngọt ngào chính là sự lựa chọn của ông. Nó có một mùi vị độc đáo và ngọt hơn rõ ràng so với hai loại si rô kia. Hương vị đó trào ra khỏi miếng bánh kếp bông xốp qua mỗi miếng cắn.
“Mmm...”
Vị trưởng làng nuốt miếng bánh xuống cùng với một tiếng ngâm nga thoả mãn và nhanh chóng nhấp một ngụm trà được ông mang theo từ làng. Nước trà đắng thanh và vẫn còn ấm nhẹ nhàng đưa miếng bánh kếp xuống dạ dày.
“Phew...”
Dư vị ngọt quả là cực phẩm! Mặc dù ông chỉ vừa mới ăn một miếng xong, ông đã cảm thấy thèm ăn thêm và ngay lập tức cắn thêm miếng nữa. Không cần biết ông đã ăn thứ này bao nhiêu năm, ông sẽ không bao giờ cảm thấy chán vị ngọt và bông xốp của những miếng bánh kếp này. Thật dễ dàng để hiểu tại sao dân số của làng lại gấp đôi nhanh đến thế. Những người Lilliput qua đường chỉ tình cờ được trải nghiệm về món bánh kếp khi đến làng, và họ lập tức mê mệt hương vị của nó, rồi lựa chọn định cư tại làng luôn.
“Cha à, cha có thể chia cho con một ít không? Con cũng muốn được nếm thử chút bánh với si rô maple.” Đó là cô con gái rượu duy nhất của trưởng làng. Cô đang cẩn thận giữ cho chiếc váy xinh đẹp khỏi dính bẩn khi ăn phần bánh kếp được phết mứt của mình.
Cô nàng đã cảm thấy ghen tỵ đôi chút với cha sau khi thấy ông hào hứng với phần bánh của bản thân. Mặc dù loại si rô yêu thích của cô là mứt chua ngọt, giống như người mẹ đã quá cố, cô vẫn không thể kìm lòng sau khi nhìn cha mình ăn.
“Rồi, rồi. Cha hiểu rồi”, cha cô nói. “Đây, ăn chút đi con.”
Ông trưởng làng khùng khục cười và rút con dao rắt bên thắt lưng ra, cắt một miếng trên phần bánh kếp của ông ra cho con và cũng lấy đi một phần nhỏ của con gái.
“Mm, cũng ngon đấy.”
Ông thực ra đã quá quen với hương vị này. Sau cùng, mứt chính là loại si rô “tủ” của người vợ yêu dấu đã qua đời tầm mười năm trước của ông mà. Nó ngọt và chua, và còn có một chút xíu mặn nữa.
Trưởng làng ngắm nhìn xung quanh và nhận ra những Lilliput khác cũng đang làm điều tương tự. Họ đều đang chia sẻ phần bánh kếp của mình với những thành viên trong gia đình, người yêu, và bạn bè. Kể cả ông thợ rèn gắt gỏng, người cao gần gấp đôi những người Lilliput khác, cũng đang đỏ mặt khi được bà vợ của mình lau vết chocolate còn sót lại trên mép.
Cùng lúc đó, tại một gia đình đông con, những đứa con trai đang trộn tất cả các loại si rô với nhau để xem chúng sẽ ra vị như thế nào, và đương nhiên trò nghịch ngợm này khiến mẹ chúng mệt chóng cả mặt.
Còn chàng thanh niên và cô gái luôn tranh cãi nhau giờ đây đang ăn những chiếc bánh kếp vị mứt và vị chocolate với nhau, thậm chí họ còn trao đổi chúng nữa. Đây có lẽ là thứ duy nhất hai người họ có thể đồng lòng.
Tại một nơi khác, những bà vợ có nhiệm vụ chia si rô đang vui vẻ bàn tán về “chiến lợi phẩm” của mình.
Ba năm trước, một vị pháp sư già chuyển đến ngôi làng. Chính người đàn ông này, trông có vẻ như không thể nào kiếm chế được bản thân, đang nhồm nhoàm miếng bánh kếp đến mức nhuộm nâu cả bộ râu của mình trong si rô. Tương tự, trong làng còn có một tu sĩ sử dụng pháp thuật hồi phục của thần Đất đai. Bà lão này đang mỉm cười hiền hậu khi được vây quanh bởi đàn cháu thơ của mình.
Đây là một khung cảnh quen thuộc đối với bất kỳ người Lilliput nào sinh sống tại làng.
Cảm ơn vì đã chờ đợi. Đây là phần thứ hai của mọi người.
Khi đĩa bánh kếp khổng lồ ban đầu yên vị trong bụng của các dân làng, ông chủ nhà hàng quay lại với một đĩa bánh mới.
Những đứa trẻ vẫn đang tuổi ăn tuổi lớn, những anh chị thanh niên ăn vẫn còn chưa đủ no, và những người trưởng thành có dạ dày lớn lại một lần nữa tập trung lại quanh đĩa. Mặc dù những người Lilliput nghiêm túc tuân thủ quy định tại đĩa đầu tiên, đĩa thứ hai lại là một câu chuyện hoàn toàn khác biệt. Bởi vì những người già và trẻ nhỏ đã no, đĩa bánh kếp sau chính là một cuộc chiến tốc độ.
Mình bắt đầu già rồi...
Vị trưởng làng vui vẻ vỗ cái bụng đã no căng của mình trong khi trìu mến ngắm nhìn thanh niên trai tráng trong làng tranh nhau những phần bánh kếp. Nhìn thấy dân làng mình nô nức như vậy khiến ông cảm thấy công sức bỏ ra để bảo vệ quê nhà thật không uổng chút nào. Ánh nhìn của ông ấm áp giống như cách ông ngắm nhìn cô con gái hồi còn bé bỏng vậy.
“Ông chủ, xin cảm ơn rất nhiều!”
Sau khi đĩa bánh kếp thứ hai đã hết sạch không còn lại cả một mẩu vụn, ông trưởng làng gửi lời cảm ơn đến ông chủ nhà hàng.
Đừng khách sáo. Làm ơn leo lên nào!
Như thường lệ, ông chủ nhẹ nhàng hạ cái khay xuống và để cho những người Lilliput leo lên. Rồi ông đi hai lượt để mang họ quay trở lại cửa nhưng với lần này, họ đã nặng thêm bằng hai đĩa bánh kếp nữa.
Mong chờ mọi người ghé thăm lần tới, ông chủ nói và mở hé cánh cửa.
“Được rồi! Mọi người đủ hết chưa?”
“Yup!”
Và cứ như vậy, những người Lilliput đồng loạt rời khỏi nhà hàng, không để sót lại một ai khi cánh cửa đóng lại.
“Chà, những người tí hon đó lần nào cũng đến đông như vậy,” ông chủ thì thầm với bản thân sau khi ngắm nhìn những vị thực khách rời đi.
Hồi trước, khi lần đầu đặt chân tới đây, họ chỉ đông bằng nửa thế này. Đúng hơn có lẽ là khoảng một phần ba thôi. Từ khi nào mà ông đã không còn có thể chở hết họ trong một lần nhỉ? Ông chủ quay lại bếp trong khi băn khoăn về điều đó.
“Haha, tưởng tượng xem nếu một ngày những con người bé xíu như thế nhưng có cánh tìm đến đây nhỉ?” ông bật cười.
Ông chủ nhà hàng cũng đã thấy nhiều chủng tộc có cánh của thế giới khác, và ông cũng thấy những vị khách bé tí tẹo như nhóm người vừa rồi. Nhưng ông chưa từng thấy những người tí hon có cánh bao giờ.
“Yeah, có khi chẳng có chuyện đấy đâu.”
Dù sao chăng nữa, cần rất nhiều người tí hon để có thể mở được cánh cửa, nếu xét đến sức mạnh. Chắc là ông sẽ không gặp được những vị khách bé nhỏ nào khác ngoài những người dân làng lúc nãy đâu. Rồi ông chủ quay lại với công việc.
Và ông không hề biết rằng chỉ vài ngày nữa thôi, một nhóm tiểu tiên cũng sẽ sớm trở thành khách quen tại nhà hàng.
15 Bình luận
Đoạn 31, học → họ
Đương nhiên là ảnh đi nhặt :D :D :D