Gieve mở mắt khi những tia nắng đầu ngày hôn lên bờ mi. Đêm qua trước khi ngủ, anh dập lửa, uống chút rượu để làm ấm người. Tuy nhiên, tác dụng của rượu cũng biến mất vào lúc binh, để lại cái lạnh thấu xương khiến anh rùng mình. Sau khi rửa mặt bên dòng suối nhỏ, súc miệng, uống thêm hớp rượu nữa, anh lấy lại tinh thần. Anh bỏ chút đường vào lòng bàn tay cho ngựa liếm thì chợt thấy có nước chảy trên má. Anh ngẩng đầu lên. Vài giọt mưa lác đác rơi xuống.
“Sắp mưa à? Xem ra ta không được hoan nghênh ở ngọn núi này rồi. Chắc tại tâm ta quá chính trực.”
Gieve rút ra kết luận về sự thay đổi thời tiết thất thường này, rồi lắp yên cương lên lưng ngựa.
“Nghe nói mưa dưới chân núi Demavand là nước mắt của Xà vương Zahhak, nhưng không phải nước mắt ăn năn, mà là nước mắt căm hận phải không?”
Không có ai ở xứ Pars chưa nghe đến cái tên Xà vương Zahhak. Cái tên ấy làm rung chuyển bóng tối, thổi những cơn gió lạnh vào lòng người. Đó là con quái vật đã giết chết Vua thánh hiền Ramshid, mở ra một triều đại đen tối kéo dài cả nghìn năm. Trên vai hắn có hai con rắn chuyên ăn não người để duy trì cuộc sống bất tử.
“Con mà không nghe lời là ban đêm sẽ bị Xà vương bắt đi.”
Những đứa trẻ lớn lên trong các gia đình xứ Pars đều quá quen với lời dọa nạt này của cha mẹ. Ngay cả người lớn cũng không khỏi rùng mình khi nghe đến cái tên Xà vương Zahhak. Và Gieve cũng thế. Cái tên chỉ mới lướt qua thôi, anh đã sẵn sàng trạng thái chiến đấu rồi.
Kai Khosrow, vi vua anh hùng từng đánh bại Xà vương Zahhak và lập ra vương quốc Pars hiện tại là một huyền thoại với người dân Pars. Mỗi khi có một đứa trẻ chào đời, người ta luôn cầu nguyện, “Mong con có được sự khôn ngoan của ngài Ramshid và sự công bằng của ngài Kai Khosrow.”
Sau khi lên ngôi, vua Kai Khosrow cũng không mấy yên bình khi mâu thuẫn với đứa con trai. Tuy nhiên, sau khi qua đời, ông vẫn được thần dân Pars tôn kính, xem như người bảo hộ vĩ đại nhất xứ này.
“…Xà vương Zahhak bị phong ấn sâu trong lòng núi Demavand sẽ hồi sinh vào ngày tận thế, một lần nữa đưa thế gian trở lại bóng tối vô biên. Nhưng đồng thời, vua anh hùng Kai Khosrow sẽ giáng trần. Lần này, Xà vương sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.”
Đó là truyền thuyết người Pars thường kể. Tuy nhiên, vào lúc này, suy nghĩ của Gieve khác với số đông.
“Hừ, người chết thì làm sao mà sống lại được? Những tai họa và bất công trên đời này, chỉ có người sống mới có thể giải quyết. Cứ không làm gì mà đổ lỗi cho ông trời thì làm sao đánh đuổi quân Lusitania hay xóa bỏ chế độ nô lệ.”
Chính vì lẽ đó, Gieve hoàn toàn đồng tình rằng thái tử Arslan có khả năng “quét sạch tai ương trên đời,” và sẵn lòng phò tá dù người đó có thể không mang trong mình dòng máu hoàng gia. Từ đó đến nay, suy nghĩ này vẫn không thay đổi
Tuy nhiên, anh không phải pháp sư có phép thần thông nên không biết đoàn người đi trước anh đã bị lạc đường và quay về chỗ cũ. Cuối cùng, Gieve và Mặt nạ bạc Hilmes đã đụng mặt nhau ở hẻm núi.
Không biết Hilmes và Gieve, ai ngạc nhiên hơn ai, nhưng rõ ràng cả hai đều không có tâm trạng ôn lại chuyện cũ.
Trước chuyến viễn chinh Sindhura, cả hai đã có cuộc chạm trán rất không thân thiện ở thành Peshawar, mà đó đã là lần thứ hai gặp mặt rồi. Không ngờ nửa năm sau, họ lại tình cờ gặp nhau lần thứ ba.
Hai người quan sát đối phương một lúc, rồi Gieve lên tiếng trước.
“Ôi chao, anh chàng với khuôn mặt đẹp trai lấp lánh ánh bạc. Có vẻ ngươi vẫn chưa bị lũ cá trong hào nước dưới chân thành Peshawar rỉa thịt. Có điều mùi bùn còn chưa hết đâu.”
Những lời mỉa mai đầy ác ý chẳng ảnh hưởng gì đến Hilmes. Giọng nói của hắn nghe như một con thú gầm gừ.
“Ngươi làm gì ở đây, tên hề?”
Hilmes hỏi rồi tự trả lời.
“À phải rồi, chắc thằng nhóc Arslan đó ra lệnh cho ngươi lần theo tung tích của ta. Nó định chiến đấu đến cùng với ta sao?”
“Không không anh bạn ạ, đừng vội suy bụng ta ra bụng người chứ. Thế chẳng phải thiếu đi sự rộng lượng của bậc quân vương sao, bệ hạ?”
Gieve nói đúng, nhưng thực chất anh cũng muốn khiêu khích đối phương. Quả nhiên Hilmes liền nổi giận, đặt tay lên chuôi kiếm. Sự thù địch toát ra mạnh mẽ qua khe hở trên tấm mặt nạ.
Gieve cũng đề cao cảnh giác. Lính của Mặt nạ bạc tản ra trên đường núi hẹp bao vây anh theo hình bán nguyệt. Chàng hát rong nhìn họ, giương giọng chế nhạo.
“Ô, tình hình trái ngược với lúc ở Peshawar nhỉ?”
Lời còn chưa dứt, kiếm đã xẹt qua.
Hiệp sĩ người Lusitania tên Olaberria cùng ba đồng đội vẫn luôn lén bám theo nhóm của Hilmes. Mỗi người dẫn theo hai lính, tổng cộng là 12 người Lusitania nhận lệnh công tước Guiscard theo dõi hành động của Mặt nạ bạc. Tuy nhiên, họ không biết người ra lệnh cho mình đang bị bắt làm tù binh là Ectabana.
Nhóm của đã rất cẩn thận để Hilmes và những người khác không nhận ra bị bám đuôi. Một đồng đội hỏi Ollaberria.
“Lũ người Pars đó đang nghĩ cái quái gì vậy?”
“Ai mà biết? Dù sao cũng là qân dị giáo. Chẳng đứa nào bình thường hết.”
Các tín đồ Yadabaoth kết luận, và Olaberria động viên các bạn mình.
“Dù sao đi nữa, chúng ta có được sự chở che của chúa tối cao, không cần sợ hãi lũ tà thần hay tay sai của chúng. Quan trọng nhất, phải hoàn thành nhiệm vụ mà hoàng tử điện hạ giao phó.”
Olaberria cũng tự trấn an mình.
“Chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ này, tương lai chúng ta sẽ ngời sáng. Kể từ sau khi chinh phục Pars, giờ ta mới có cơ hội lập thêm công trạng. Chắc hẳn những hiệp sĩ khác đang ghen tị với ta.”
Olaberria có tính cách xởi lời, hay nói nhiều nên đồng bạn đi cùng hắn ta cũng đỡ lo phần nào. Tiến về phía trước, khung cảnh càng thêm u ám, gió thổi lạnh buốt, hơi nước bốc lên nhưng không thể xuyên qua mây mù, cuộn thành sương trắng trên mặt đất. Đây đó vang lên tiếng kêu của những loài chim lạ, rung chuyển cả màng nhĩ lẫn tâm can. Mùi chướng khí nồng nặc, ngựa không chịu di chuyển.
“Cảnh tượng nơi này giống y như địa ngục qua lời kể của các mục sư.”
“Im đi, đừng có nói lời xui xẻo!”
Những tiếng nói thì thầm càng khiến bầu không khí thêm u ám. Người Lusitania không biết đến những truyền thuyết đáng sợ về núi Demavand như người Pars. Dù vậy, họ vẫn cảm thấy căng thẳng, không rõ lý do. Họ đều là các hiệp sĩ, đối đầu với đao kiếm chẳng mảy may nao núng, nhưng rốt cuộc cảm giác này là sao? Bầu trời, mặt đất, và cả không khí xung quanh mang đến cảm giác ớn lạnh bao trùm những người chiến binh Lusitania.
“Chuyện gì kia? Hình nhưng đám người Pars đang đánh lẫn nhau!”
Quả như báo cáo của Olaberria với các đồng đội, Gieve và Mặt nạ bạc đang đối đầu nhau. Bọn họ nấp dưới thung lũng, lén theo dõi tình hình. Vì đứng ở đầu gió nên cả Gieve lẫn Hilmes đều không phát hiện ra sự tồn tại của họ. Gieve thông minh và nhạy bén, nhưng lúc này anh lại đang tập trung ứng phó với đám người trước mắt.
“Gì thế này? Ỷ đông hiếp yếu ư? Thật trái với phong cách của một hiệp sĩ. Chúng ta cứ khoanh tay ngồi nhìn à?”
Một hiệp sĩ tên Don Ricardo hỏi. Olaberria sửng sốt, mắng người bạn đồng hành.
“Đồ ngu ! Để yên cho lũ dị giáo bất kính với thần linh tự giết lẫn nhau, đó không phải điều ta mong muốn à? Chết tên nào ta mừng tên ấy.”
“Đúng vậy, nhưng dân ngoại đạo thì cũng phải biết lễ nghi chứ?”
Trong khi đó, những người Pars lại không quá nhiều lời, chỉ giữ cho lũ ngựa bình tĩnh khi thong thả di chuyển. Chưa một ai có ý định chuyển từ thế đối đầu sang thế tấn công.
“Ngươi theo dõi bọn ta có mục đích gì?”
Cũng dễ hiểu tại sao Hilmes nghĩ thế, nhưng cố tình Gieve lại không phải loại người thích giải quyết hiểu lầm.
“Chính ta mới phải hỏi ngài mặt nạ bạc. Ta chỉ là một kẻ hát rong tầm thường thôi mà.”
“Hừ ! Mồm mép ba hoa ! Một tên nhạc sĩ tồi và một tên họa sĩ tồi ! Có vẻ như nền văn minh nghệ thuật mà xứ Pars tự hào cũng bị các ngươi hủy hoại mất rồi.”
Lời chế nhạo của Hilmes âm thầm rít qua tấm mặt nạ. Gieve cảm thấy rất khó chịu khi tài năng âm nhạc của mình bị so sánh với tài năng hội họa của quân sư, nhưng anh không nói. Hilmes rút lưỡi gươm bên hông, vung lên trong màn sương lạnh.
“Nếu số phận đã định thì kết thúc tại đây đi!”
“Căng quá nhỉ? Liệu ngươi có sống sót nổi lần này nữa không?”
“Ngươi đáng nói về ai vậy!”
Quát một tiếng, Hilmes thúc ngựa lao về phía Gieve với nhát chém khủng khiếp. Nếu trúng đòn này, từ vai đến thắt lưng Gieve sẽ bị bổ đôi. Tuy nhiên, Gieve không phải thứ hình nộm bằng đất sét. Anh tránh được lưỡi kiếm với sự uyển chuyển đáng kinh ngạc. Kiếm chém vào không khí, cơ thể Hilmes hơi mất thăng bằng.
Lúc này, kiếm của Gieve cũng vung lên. Đòn đánh vô cùng sắc bén nhưng khả năng phản xạ của Hilmes vượt xa người thường. Hắn lật cổ tay trong tích tắc, dùng sống kiếm đỡ đòn của Gieve rồi đẩy bật lại. Tám vó ngựa lộn xộn trên con đường núi chật hẹp.
“Dù thằng nhãi con của Andragoras có lắm thuộc hạ nhưng tên nào cũng chỉ giỏi trốn. Tên Narsus kia cũng vậy.”
“Nói thế thì sai rồi.”
“Cái gì?”
“Ta giỏi hơn ngài quân sư nhiều.”
Bất ngờ, Gieve giật mạnh dây cương. Con ngựa vút lên bằng hai chân trước. Tuy Hilmes đã lùi lại một bước nhưng không khỏi ngạc nhiên. Gieve quay đầu, tựa như muốn nhân cơ hội chạy trốn. Hilmes liền ra đòn phía sau lưng.
Gieve quả xứng là bậc thầy khiển mã. Trước khi chân trước của ngựa chạm đất, anh đã đổi hướng. Như một cơn gió, anh ta phóng qua bên hông Hilmes. Khi đối phương giật mình, định vung kiếm chém thì Gieve đã cho ngựa nhảy xuống vực. Anh điều khiển ngựa một cách khéo léo trên vách núi dựng đứng như tranh thủy mặc xứ Serica. Đến gần đáy vực, anh cho ngựa bật tung lên, lao thẳng xuống sông. Tới đó, anh vẫn còn vẫy tay chào những kẻ bên trên bằng một cử chỉ rất duyên dáng. Người của Hilmes giương cung lên bắn nhưng từ vị trí của họ tới chỗ Hilmes có vài chướng ngại vật nên họ không thể bắn trúng. Tiếng cười của chàng hát rong trôi xuôi theo dòng nước.
0 Bình luận