Bad Hero
Kismala Zen Ava, Masaharu, Checky
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Đại Lâm Viron

Chương 16: Hi vọng

1 Bình luận - Độ dài: 4,155 từ - Cập nhật:

Sau câu hỏi của Vetox là một khoảng lặng âm u, ánh đuốc bập bùng khiến cho bóng người xao động. Ánh mắt Vetox hững hờ lướt qua sảnh đường trống rỗng, rồi dừng lại ở hai kẻ đương quỳ dưới thềm, nhìn dáng vẻ len lén liếc nhau của chúng, trong lòng lại càng thêm chướng mắt. Chợt một cơn gió lạnh từ đâu thổi vào đại sảnh, ánh đuốc rung rinh, thị trưởng Kelvin hay nói đúng hơn là con quỷ trú trong thân hình béo ụ ấy lên tiếng:

“Bẩm đức ngài, chúa tể bóng đêm lệnh chúng tôi thu thập món thánh vật ở thành này.”

Một câu ngắn gọn, không nhiều không ít, thẳng vào trọng tâm, tuy không tính là dối gian nhưng rào trước chắn sau đủ hết, lại chẳng lộ thêm được chút tin gì, quả là một kẻ miệng mồm lợi hại. Vetox không đáp lời, đánh mắt ra ngoài cổng lớn, bóng đêm án ngữ ở đó đã đặc quánh hơn bao giờ. Ả quỷ trông theo ánh mắt cậu, hắng giọng một cái rồi lại nói:

“Vì chúa tể không muốn mọi chuyện rình rang nên phải dùng thuật che mắt, tuy không...”

Vetox giơ tay ngắt lời con quỷ, hướng ánh nhìn lạnh lẽo sang Uhlí, thanh âm uy quyền mang theo áp lực nặng trĩu:

“Lúc đầu đúng là thuật che mắt, nhưng ban nãy là ma thuật không gian, ngươi đã đưa đám mạo hiểm giả đi đâu vậy?”

Lời ấy vừa nói ra, tên quỷ Uhlí liền giật mình, còn Kelvin thì cúi đầu mím môi. Vetox vẫn lạnh lùng nhìn ra ngoài, chậm rãi nói:

“Ngoài hai ngươi thì ta cảm nhận mang máng còn có ma lực hai tên ở trong thành. Một trong hai tên ấy, có phải là con dơi Batista mà ngươi vừa nhắc đến? Còn món thánh vật phải chăng là cây thương sự thật Alethia?”

Uhlí và Abrial rùng mình. Trong giới tà ma tiếng tăm Vetox vốn cực kỳ lớn, nhưng những kẻ từng chứng kiến phần nhiều đã chết từ lâu, danh tiếng ngày nào giờ không khác gì lời đồn nơi quỷ giới, bọn Uhlí sinh sau đẻ muộn có nghe tiếng nhưng cũng chỉ cho là đồn thổi quá tay, quá nửa chỉ có hư danh, bây giờ chính mắt thấy tai nghe một Vetox thần thông quảng đại, như thể biết hết mọi điều, tự khắc hiểu lời đồn không sai, lập tức sinh lòng kính sợ.

Vetox lại nói:

“Ban nãy tiếng chuông vừa dừng thì ngươi liền niệm phép, vậy con dơi đó ắt hẳn vừa ở chỗ tháp chuông nhà thờ, nếu chỉ tìm kiếm một món thánh vật thì cần gì chia ra hai chỗ, suy ra hai ngươi tới công hội mạo hiểm còn có mục đích khác. Hai ngươi cố ý che giấu, tưởng qua được mắt ta sao!”

Ả quỷ vội vã nói:

“Dạ... dạ, không phải đâu, là mệnh lệnh của chúa tể, chúng tôi không cố ý xúc phạm đức ngài, chúng tôi chỉ theo lệnh chúa tể thôi!”

Vetox lạnh lùng đáp:

“Ta chỉ thấy ngươi là không muốn sống!”

Uhlí và Kelvin giật mình, chợt một mảng hào quang sắc tía ào đến, trong chớp mắt chỉ cảm thấy một sức nặng ngàn cân. Chúng vốn đang quỳ, trên lưng cũng không có thêm vật gì, nhưng trong toàn thân không hiểu sao đã cứng đờ, hào quang nhìn như không có trọng lượng lại như một hòn núi nhỏ, tung hết bình sinh cũng không sao chịu đựng được, ngay cả muốn ngước mặt nhìn lên cùng không tài nào làm nổi. Con quỷ Uhlí không trú trong cơ thể người, nhận hoàn toàn áp lực kinh khủng ấy, cơ thể đen dần dần vụn vỡ như gỗ mục lâu năm. Còn về phần kẻ đội lốt thị trưởng Kelvin, cơ thể bình thường của con người lập tức sụm xuống như một đống bùn, nhưng nhờ bên trong có hồn quỷ nên vẫn còn thoi thóp.

Lúc ấy Uhlí vội vã nói:

“Phu nhân Abrial! Không còn cách nào khác, nói hết cho ngài ấy đi thôi!”

Giọng đàn bà yếu ớt vọng ra từ đống thịt đã từng là Kelvin Watchman, thanh âm nghe cực kỳ khẩn thiết:

“Được, được! Xin đức ngài tha mạng, tôi sẽ kể hết...”

Đột nhiên hào quang quanh Uhlí biến mất tăm, còn hào quang quanh Kelvin chợt đậm đặc gấp bội. Vetox lạnh lùng trỏ vào Uhlí, nói:

“Nói đi! Ta tin ngươi, không tin ả này.”

Đối đáp vài câu, Vetox đã biết ả Abrial ăn nói nghe xuôi tai nhưng xảo trá đủ đường. Còn về phần tên Uhlí lại có dáng vẻ cung kính thành thực, đồng thời Vetox thấy hắn ta yếu hơn ả kia, dễ bị ma thuật thôi miên chi phối hơn nên thành ra cũng đáng tin hơn vài phần. Vetox thả hắn khỏi ma thuật, nhưng sát khí áp lên hắn vẫn hết mực dày đặc, tựa hồ như đem hắn treo giữa vực thẳm cheo leo, giọng nói lại càng thêm phần đe doạ:

“Ta muốn giết ngươi thì dễ như trở bàn tay!”

Cơ thể Uhlí vừa thoát khỏi ma thuật, tinh thần liền chịu áp lực kinh hoàng, đầu óc choáng váng tới năm phần, vội nói:

“Xin...xin đức ngài tha mạng!”

Vetox làm bộ như không nghe thấy gì, thủng thẳng vuốt nhẹ mái tóc dài, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt tuyệt sắc thờ ơ, tựa như lời cầu xin của con quỷ phía trước chả phải điều chi quan trọng. Vẫn là giọng nói lạnh lùng, nhưng lại lẫn thêm sát khí:

“Muốn sống thì một là ra tay đánh chết Vetox này. Hai là nói hết sự thật, không được giấu diếm.”

Uhlí kinh hãi liếc nhìn sang Abrial, Vetox liền giục:

“Sao hả? Chọn mau! Nếu ngươi không chọn thì ta chọn cho ngươi!”

Dứt lời cậu giơ tay phải vờ như định giáng xuống.

Uhlí vội la lên:

“Tôi khai, tôi khai! Bọn tôi có bốn người, tôi và phu nhân Abrial tới đây vừa tìm kiếm cây thương Alethia, còn nhiệm vụ của hai người kia là gì thì chúa tể không cho chúng tôi biết!”

Câu này nói ra người thường nghe xong ắt nghĩ Uhlí cố tình che giấu, nhưng lúc này Vetox nửa doạ nạt nửa thôi miên, Uhlí khó mà nói dối, huống chi cậu biết rõ thói quen của quỷ vương, hễ sai làm gì thì chỉ cho biết việc cần, các thủ hạ ai làm việc nấy, phòng dù bị bắt cũng không thể khai người khác ra, cho nên Vetox vừa nghe qua là biết mấy lời này là thật, bèn hỏi:

“Các ngươi đã biết cây thương ở đâu rồi sao?”

Uhlí đáp:

“Hiện vẫn chưa, nhưng mà chúng tôi đã phát hiện một căn hầm bí mật ở dưới tổng bộ mạo hiểm giả, tin chắc ít nhất cũng phải có được tung tích vật ấy.”

Vetox thoáng trầm ngâm, trước đó ở làng Rass lũ Goblin vây đánh nguyên lão Agatha mục đích để moi tung tích về cây thương Alethia, vậy nên việc Uhlí không biết vị trí chính xác của nó cũng là thật. Lần này chúng chia ra hai nhóm, nhóm Uhlí ở đây khám phá căn hầm bí mật, vậy thì hai tên còn lại khả năng cao đang đối phó với hai nguyên lão Bruno và Agatha. Hai việc tưởng hai mà một, tưởng một mà hai, chỉ cần một trong hai thành công thì thương sẽ rơi vào tay quỷ vương, thủ đoạn tính toán kiểu này khiến một mình Vetox khó mà phá vỡ. Cậu đưa mắt nhìn ra ngoài, nghĩ thầm:

Phải liên lạc với Gallyvia và Sunora mới được, tốt nhất là nẫng tay trên chúng, đoạn lấy Alethia.

Uhlí thấy Vetox lặng thinh một lát lại tưởng cậu không tin mình, liền vội nói:

“Nếu đức ngài muốn tôi có thể dẫn người đi coi căn hầm ấy, nhưng mà...”

Vetox thấy bộ dạng ngập ngừng của hắn, cau mày hỏi:

“Nhưng gì?”

Uhlí đưa mắt nhìn sang Abrial, nói:

“Cửa ra vào hầm ấy chỉ có phu nhân Abrial biết cách giải thôi.”

Vetox hừ nhẹ một tiếng, ngón trỏ tay trái búng ra, hào quang tan biến. Uhlí vội đỡ lấy cái xác thịt dập nát của Kelvin Watchman, giọng ả Abrial vang lên:

“Cảm tạ Đức ngài đã tha cho.”

Vetox cau mày, quát:

“Sao còn chưa chui ra!”

Abrial không dám cự, lồm cồm ngồi dậy, từ trong hai mắt và lỗ mũi máu đen trào ra, mùi tanh hôi nồng nặc. Chừng khi máu đen trào ra thành một vũng lớn, từ trong vũng ấy trồi lên một người đàn bà trọc đầu, toàn thân lõa thể. Vetox ngắm nghía ả một lát, thấy ả ngũ quan thanh tú, thân thể nuột nà, tuy đầu trọc lốc nhưng chung quy rất khả ái. Vetox vẫn đinh ninh ả ru rú trong xác người mãi, lại ghen ghét với nhan sắc của cậu, thì tất mặt mũi phải khiếp lắm, ngờ đâu ả lại là người có tư sắc không tồi, không khỏi ngầm khen Tensai rất biết thưởng thức.

Abrial rũ mình một cái, vũng máu đen bốc lên như khói sương, tụ thành một bộ váy dài. Xiêm áo đã chỉnh tề, ả mới nhẹ nhàng nâng tà váy hướng Vetox mà hành lễ:

“Abrial, tả thủ vệ ngai quỷ, xin ra mắt đức ngài.”

Uhlí cũng kính cẩn nghiêng mình:

“Uhlí phó tả thủ thủ vệ ngai quỷ, xin ra mắt đức ngài.”

Vetox nghe thế liền nghĩ bụng.

Ra là tùy tùng cận thân của Tensai. Xong chuyện này tốt nhất là bắt cóc chúng để tra khảo tình hình quỷ vương, như vậy sẽ càng tiện lợi.

Nghĩ vậy cậu bèn nói:

“Mau đưa ta đi xem căn hầm bí mật ấy đi!”

Abrial cúi đầu:

“Vâng, xin đức ngài theo tôi!”

Dứt lời ả và Uhlí nhẹ nhàng xoay người đi trước dẫn đường, Vetox đi theo ngay sau.

Ba người đi đến phía sau đại sảnh, qua một hành lang dài, đến một vườn cây nhỏ, rồi vào một gian phòng lớn ở phía Tây. Gian phòng Tây vốn là nơi công hội mạo hiểm giả trữ tiền tài nên tường vách rất dày, cửa then cực chắc, từ ngoài nhìn vào thấy rõ vẻ kiên cố an toàn. Abrial lấy bên người ra một xâu chìa khóa, đưa cho Uhlí mở cánh cửa sắt ra. Cửa ấy vừa mở ra, bên trong đã tỏa ra ánh vàng lấp lánh, không biết bao nhiêu vàng ngọc, giáp kiếm dị hình, được xếp ngay ngắn khắp phòng, trên trần có mười ba ngọn đèn chùm từ đá ma thuật tỏa ra ánh sáng trắng. Vetox nhìn quanh một lượt, chợt thấy ánh bích lập lòe thật quen mắt, nhìn kỹ lại thì ra là chiếc khiên và đao adamantite mà cậu đoạt được từ đám Goblin ở làng Rass đang nằm trên kệ giữa hàng đống khí giới.

Tạm giữ tang vật để kiểm tra, ta thấy giống chiếm đoạt hơn! Vetox nghĩ bụng.

Abrial nói:

“Đẩy bức tường bên phải!”

Uhlí đưa tay ra đẩy, thì ra bức tường này là bức tường giả, lộ ra một mật đạo tối mù. Vetox và hai tên quỷ đều nhìn trong đêm tốt nên chẳng cần đèn đuốc cứ vậy mà tiến vô.

Cả ba đi thẳng vào mật đạo, hai bên đường hầm chật chội chỉ vừa đủ một người đi, càng ngày lại càng thấp hẹp, mọi người phải cúi lom khom mới khỏi đụng đầu.

Vetox thầm nghĩ:

Nơi này nhỏ chật, nhưng chắc chắn, lại bí mật, nếu không có bọn này chỉ lối mình cũng khó mò ra.

Quẹo qua mấy khúc quanh, trước mặt bỗng rộng rãi sáng trưng, hai bên hầm có treo mấy chục ngọn đèn ma thuật, tim đèn như hạt đỗ, tỏa sáng như ban ngày. Vetox chợt ngửi có mùi hương thơm ngát thoảng đưa, biết ấy là chất độc ghê gớm, nhưng đối với cậu hay ác quỷ lại chẳng tác dụng gì.

Từ trong đường hầm đi vào là tới một gian phòng rất rộng. Đao gươm, giáp trụ và rất nhiều hài cốt rơi vãi khắp nơi, mặt tường và trần hầm chằng chịt vết cháy xém, rõ ràng đã có một trận chiến diễn ra. Vetox nhìn sơ thấy dưới đất có mấy chục miếng mề đay mạo hiểm giả bạch kim và vàng, không khỏi tò mò đã xảy ra chuyện gì.

Hai con quỷ dẫn Vetox dẫm qua bãi chiến trường rồi vòng qua năm ngã rẽ nữa mới đến được một căn phòng khác lớn hơn. Bên trong gian phòng, trần tường chỗ gãy đứt, chỗ vặn xoắn, vỡ nát, nền đất chỗ thì nứt toác, chỗ lún xuống chỗ gồ lên, khung cảnh cực kỳ điêu tàn u ám. Tại cuối căn phòng có một cánh cửa lớn, đầy vết cào vết chém nhưng vẫn sừng sững và đóng kín. Vetox cảm thấy ma thuật rò ra từ sau cánh cửa cực kỳ mạnh, tuy ít nhưng khiến dòng chảy ma lực trong Vetox trở nên xao động lạ thường, lại cảm giác cánh cửa này vững chắc như một chiếc đập khổng lồ, cách biệt trong ngoài gần như triệt để, tạo tác tuyệt vời như thế, Vetox không khỏi khen ngợi trong lòng.

Cánh cửa và thứ bên trong cũng khá lắm đấy!

Chợt tên quỷ Uhlí xoay người, hướng Vetox mà cung kính nói:

“Xin đức ngài đợi chờ giây lát, còn gần nửa tiếng nữa mới tới lúc mở cổng ạ!”

Vetox lấy làm lạ, hỏi:

“Sao phải đợi lâu thế?”

Uhlí đáp:

“Dạ, cổng này vốn bị phong ấn, cần có mật khẩu mới mở, mỗi lần sai mật khẩu thì phải đợi một năm mới thử lại được.”

Vetox không đáp, ngón trỏ tay trái chỉ vào cánh cửa:

“O nepo e ano! Apul ilus ip omot newa o amak naw nol asni ne nol am!”

Mở ra đi! Hỡi cánh cổng của hầm, hãy để trong và ngoài lại hoà làm một!

Một ánh tía chói loà lóe lên trên đầu ngón tay Vetox, sấm sét phóng ra, lao thẳng về phía cánh cổng như một cự xà.

Chỉ nghe ầm một tiếng lớn, rung chuyển cả hầm, cánh cửa lớn vẫn vững vàng sừng sững, còn trần và tường thì rơi xuống cát bụi như sắp sụp đến nơi.

Uhlí kinh hãi nói lớn:

“Xin đức ngài dừng tay! Nơi này không chịu nổi ma lực của ngài đâu!”

Abrial xoay mình tái mặt, ánh mắt nhìn Vetox đầy ngạc nhiên, nhưng rất nhanh ả trở về vẻ điềm tĩnh, nói:

“Xin người kiên nhẫn, chốc nhập mật khẩu là cửa sẽ mở thôi!”

Vetox lạnh lùng liếc nhìn ả, nói:

“Ngươi đã nhập mật khẩu sai mấy lần rồi!”

Abrial cúi đầu, nói nhỏ:

“Dạ đây là lần thứ mười.”

Vetox hừ một tiếng, nói:

“Vậy là ngươi đã thử mất chín năm?”

Abrial gật đầu đáp:

“Mật khẩu chỉ thiếu một số cuối cùng, chín năm qua đã thử chín số rồi, giờ chỉ còn lại một đáp án, chắc chắn không thể nào sai được ạ.”

Vetox nhìn dáng vẻ của ả và Uhlí, nhất thời không nhìn ra dối gian gì, bèn im lặng đứng chờ, không làm gì nữa.

Lúc bấy giờ tại ngọn tháp chuông nhà thờ Nam Sagrion, bọn người Abraham đương bị kẹt trong trùng vây lớp lớp. Dưới chân tòa tháp vững vàng là hàng trăm cặp mắt đỏ, tiếng Hellhound tru theo gió đến tận đỉnh tháp chuông dọa cho lũ trẻ run rẩy, sụt sùi, Abraham nghe mà nổi gai ốc, một luồng hơi lạnh dâng lên trong lòng.

Bỗng nhiên có ai đó kéo tay Abraham, lão giật nảy mình, sau lưng có người áp sát như thế mà mình hoàn toàn không hay biết gì, vội vàng quay lại, chỉ thấy thấy dưới ánh đuốc mập mờ, một người phụ nữ hai mắt đẫm lệ, chính là Sofia hai tay vẫn đang ôm chặt con gái. Abraham nhìn thấy nàng bất giác ngẩn ra, nói:

“Sofia... con sao thế này?”

Nàng ta lắc đầu, đưa đứa bé ra, nhưng Abraham không đón lấy nó ngay, lão thẩn thờ nhìn đứa con đỡ đầu. Nỗi lòng người mẹ ngàn vạn yêu thương trìu mến xung đột với muôn trùng khổ đau hoảng sợ đã khiến mái tóc Sofia gần như bạc trắng hết.

Nàng vẫn hoàn toàn không quan tâm đến ánh nhìn của Abraham mà dúi đứa bé Viola vào lòng lão, ánh mắt toát ra vẻ van xin đến tột cùng. Abraham nhìn dáng vẻ của nàng, bỗng nhiên một hình ảnh xa xưa hiện về trong tâm trí lão, rất rất lâu rồi một người thiếu nữ cũng đã từng nhìn lão với ánh mắt thế này. Hình ảnh ấy vừa hiện lên, bất giác lòng Abraham thắt lại, vô thức đưa tay đón lấy Viola, đột nhiên lão toát mồ hôi lạnh, đầu óc tỉnh táo lại liền, kinh hãi nói:

“Sao con bé lại lạnh thế này?”

Lão vội cởi áo cô bé ra, áp tai lên ngực nghe ngóng, thấy tiếng tim rời rạc yếu ớt muôn phần. Không biết là do đau khổ hay là quá mệt nhọc mà Abraham cảm thấy như đất trời xoay chuyển đến váng đầu, trong lòng mờ mịt, hoàn toàn chết sững. Bỗng ngay lúc ấy một cơn địa chấn chợt từ đâu truyền đến, cả tòa tháp rung chuyển mạnh, các nữ tu hoảng hốt kinh hô còn lũ trẻ sợ hãi oà khóc. Cơn địa chấn ấy chỉ thoáng qua trong giây lát nhưng khiến tất cả mọi người chìm trong kinh hoàng, Abraham bình tĩnh lại sớm nhất, nhìn Viola đang thoi thóp trên tay rồi nhìn sang lũ trẻ con còn lại, liền nghĩ:

Ở lại đây chỉ e là chết hết, chi bằng đánh liều một phen!

Đoạn lão giao Viola lại cho Sofia ẵm, mượn của một nữ tu một con dao, miệng khấn:

"O nilip eki. O akew!"

Xin hãy nhận lấy một tấm lòng thành và ban cho một con đường thoát!

Nói xong đâm luôn dao vào ngực phải mình. Sofia giật thót hãi hùng, các nữ tu không kìm được bật tiếng la hoảng. Nữ tu Mary đứng gần Abraham nhất, tưởng lão bí quá tự sát nên vội vương tay nắm lấy chui dao, nhưng Abraham ra tay nhanh quá, lưỡi dao đã đâm vào thịt, trước ngực máu tươi tuôn ra bắn thẳng xuống nền. Abraham lại hô to:

“Xuất hiện đi hỡi kẻ kéo những hào quang!”

Tức thì tại nơi máu Abraham rơi xuống tỏa ra ánh sáng chói lòa, từ hư vô hiện ra một con ưng to lớn, lông trắng sáng như ánh sáng ban ngày.

Abraham khuỵu xuống nền, thở hổn hển. Con ưng nhìn lão, cất giọng nói như lời ca:

“Abraham, thợ săn phù thủy.

Đã lâu rồi tiếng tù và xưa.

Đã mắc kẹt giữa đi và ở.

Nơi này đây lời thiên đã thốt.

Ta đến theo quang ngôn chói lọi.

Mang đến niềm vui và kéo nỗi sầu đi.”

Nữ tu Mary vội vàng xé tà váy băng bó cho Abraham, bà thấy vết thương không sâu vừa thở phào một tiếng thì nghe con chim ca tiếng người, liền nhìn sang Abraham hỏi:

“Ông... ông tính làm gì?”

Abraham lúc này nhìn như già đi mấy chục tuổi, thều thào đáp:

“Đưa lũ trẻ lên... đưa chúng rời khỏi đây... đến nơi an toàn!”

Mary hiểu ngay, để Abraham nằm nghỉ ngơi, quay sang các nữ tu còn lại bảo đưa lũ trẻ lên chim. Đám trẻ mồ côi vốn cũng chỉ có hai mươi mấy đứa nhưng lưng chim cũng không đủ rộng, nhét hết cỡ cũng chỉ được mười hai đứa, các nữ tu phải xé áo bện thành dây, buộc hai bên chân chim và dưới bụng chim thêm mấy đứa nữa. Lúc ấy vẫn còn một chỗ nhỏ ở thân chim nhưng còn lại Sofia và một cậu bé khác, các nữ tu không biết phải chọn ai bỏ ai.

“Chọn con bé cho nhẹ! Chim chở nặng lắm rồi!” Một nữ tu nói.

“Chọn bé trai đi, tôi thấy con bé kia khó mà sống nổi rồi!” Một nữ tu khác xì xầm.

Mary cảm thấy chọn ai cũng có lỗi với người còn lại, bèn xoay sang nhìn Abraham và Sofia. Chỉ thấy Sofia ngồi bệt cạnh cha đỡ đầu, mắt đăm đăm không chớp vào đứa nhỏ trên tay. Abraham cũng nhìn nó, hai hàng lệ chảy dài trên má lão. Mary thở dài, bà chưa từng thấy ánh mắt nào nhiều quan tâm lo lắng như thế, tựa như cả hai người kia đều hận không thể chết thay cho Viola.

Với sức mạnh và tiếng nói của Abraham, ông ta có thể ép buộc bất kỳ ai nhường chỗ cho Viola, nhưng ông ta không làm vậy, lý trí của một vị anh hào đã cản ngăn sự ích kỷ ấy. Sofia cũng thế, cô dường như đã thông suốt, rằng Viola bây giờ như ngọn đèn cạn dầu, sẽ tắt lúc nào không hay, dù có dành được chỗ trên lưng chim để chạy thoát cũng khó mà sống nổi, chi bằng ở cùng con những phút cuối đời, để con được ra đi trong vòng tay ruột thịt tình thân.

Đột nhiên cậu bé trai kia lên tiếng:

“Hãy để em ấy lên đi ạ!”

Mary, Abraham, Sofia và các nữ tu sững sờ; như thể không tin vào tai mình, Mary hỏi lại:

“Cháu... cháu nói gì cơ?”

Cậu bé đáp:

“Xin cho em ấy lên đi ạ! Em ấy còn mẹ, còn ông.”

Con ưng nghe vậy cúi đầu nhìn vào mắt cậu bé:

“Ngươi có biết không đi là sẽ chết?”

Cậu bé nhìn vào mắt chim nói:

“Biết chứ!”

Con ưng lại hỏi:

“Vậy sao ngươi nhường cho cô bé kia?”

Cậu bé đáp:

“Vì nếu cô chết mẹ và ông cô sẽ buồn lắm.”

Con chim nhìn vào mắt cậu bé một lúc rồi hướng về Mary:

“Ẵm con bé kia buộc vào ta mau!”

Mary sợ uy con chim nên vội tiến tới chỗ Sofia, toan ẵm Viola đi, đột nhiên có một người lên tiếng:

“Chỉ sợ con bé không chịu nổi tới nửa đường!”

Mọi người nhìn lại thì thấy người nói là một nữ tu già nua, chính là nữ tu đánh chuông. Bà vừa chậm rãi bước lại Viola vừa nói:

“Vết thương của cô bé này chỉ có đảo hoà bình may ra chữa được.”

Con ưng đáp:

“Ta chỉ cần một ngày là bay được một vòng thế giới, đảo hoà bình dù xa đến đâu cũng không ngại.”

Nữ tu già lại nói:

“Đảo hòa bình nằm giữa màn sương mù nhiệm màu, không có chỉ dẫn không thể đến đó.”

Dứt lời bà lấy ra một sợi dây chuyền bạc, mặt dây hình bướm nhỏ, đeo vào cho Viola nói:

“Có thứ này cô bé sẽ tới được nơi cần tới.”

Abraham trông thấy mặt dây, toan nói gì đó nhưng mệt quá không nói ra hơi. Sofia thấy Viola vừa đeo dây chuyền ấy vào thì khuôn mặt bớt tím tái, hơi thở cũng đều hơn, biết con mình đã có được đường sống, không khỏi vui mừng liền cùng Mary đưa Viola lên chim ưng, rồi quỳ trước nữ tu già và chim ưng mà cúi lạy.

Nữ tu già làm như không thấy, còn chim ưng thì rít lên một tiếng vang trời, ánh hào quang tỏa ra chói mắt, rồi nữ tu và con chim vụt biến mất tăm, tại nơi con ưng đậu mọc ra một mảng cỏ xanh mướt. Các nữ tu còn lại thấy từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, trong chớp mắt gánh nặng bảo vệ đám trẻ tiêu tan, mọi người đều thở phào một hơi. Riêng Sofia và Abraham thì có thêm một mùi vị lạ lùng trong thân tâm, cả hai nhìn sang cậu bé còn lại, một cơn gió thổi tới làm tóc mái cậu tốc lên, để lộ một đôi mắt sáng rực đầy kiên định. Mary hỏi cậu:

“Này cháu kia, cháu tên gì?”

Cậu bé trả lời:

“Dạ, cháu là Ron!”

Bình luận (1)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

1 Bình luận

Tóc bạc kiểu này là hội chứng Marie Antoinette nè. Mà bà Sofia này lý trí quá, đau đến bạc đầu mà không bùng nổ cảm xúc gì hết

Xem thêm