Bad Hero
Kismala Zen Ava, Masaharu, Checky
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 01: Đại Lâm Viron

Chương 13: Bóng đêm che thành, chuông vang hoảng hốt

0 Bình luận - Độ dài: 6,633 từ - Cập nhật:

Hai tiếng sau khi lệnh phong tỏa được ban hành, đường xá Sagrion thường ngày luôn luôn nhộn nhịp đã hoàn toàn vắng vẻ, tuy thỉnh thoảng có mấy tốp mạo hiểm giả tuần tra qua lại nhưng ai nấy đều giữ im lặng nên thành ra bầu không khí đầy vẻ ngột ngạt, không gian sặc mùi căng thẳng.

Lúc này mặt trời mới mọc được vài giờ, tiếng chuông nhà thờ ánh sáng ở phía Nam quảng trường trung tâm theo lệ vang lên từng hồi, tạm thời xua tan sự yên tĩnh nặng nề đang hiện hữu nơi nơi.

Nắng buổi sáng không quá gay gắt chiếu xuống những bức tường gạch của nhà thờ, ánh vào mặt người một màu đỏ nhợt nhạt. Đứng một mình trước cửa nhà thờ thành Sagrion, mạo hiểm giả cấp bạch kim Abraham khẽ vuốt ve bộ râu dài của mình, khuôn mặt phúc hậu phảng phất đôi chút mỏi mệt, nghĩ thầm:

Lạ thật! Sao gõ cửa rồi mà không ai trả lời hết vậy nhỉ? Không lẽ bị tiếng chuông át đi mất rồi.

Abraham đang tính cất tiếng gọi thì bỗng nhiên cánh cửa từ từ mở ra, một nữ tu trung niên xuất hiện, lạnh lùng nói:

“Xin chào ngài Abraham.”

Abraham thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng vừa nhận ra nữ tu thì lão liền trở về dáng vẻ điềm nhiên như thường, mỉm cười đáp lễ:

“Chào Mary, lâu rồi mới thấy bà. Dạo này khỏe không?”

Nữ tu Mary cau mày, nói:

“Không cầu nói mấy lời dư thừa đâu, ngài đến đưa mẹ con cô Sofia về phải không?”

Abraham nghe vậy lập tức ngẩn ra, hỏi ngược lại Mary.

“Ủa! Sao mẹ con nó lại ở đây?”

Nghe câu hỏi của Abraham, đuôi mắt đầy vết chân chim của Mary nhăn nhúm lại, bà liếc Abraham một cái rồi nói:

“Mẹ con cổ đến giao hàng thì bị lệnh phong tỏa nên kẹt lại luôn. Tuy tôi đã sắp xếp chỗ ở cho hai người rồi, nhưng ở đây cũng bất tiện lắm, ngài mau đưa họ về đi!”

Abraham liền xua tay thoái thác:

“Xin lỗi nhưng ta không thể đưa người không phải mạo hiểm giả đi lại khi lệnh phong tỏa còn được. Vả lại ta đến đây là có việc khác.”

Mary thấy thái độ của lão như thế thì vẻ không hoan nghênh càng lộ rõ ràng, giọng nói vốn đã lạnh lùng càng thêm phần gắt gỏng.

“Có người cha đỡ đầu như ngài cũng như không. Tôi cá là ngài cũng chả hay chuyện mẹ con Sofia suýt bị cướp lấy mạng trên đường về thành phải không?”

Abraham nghe thế liền kinh hãi, lạc cả giọng:

“Hả... có chuyện... chuyện đó ư!”

Mary thở dài, nói:

“Theo tôi, tôi dẫn ngài đi gặp Mary.”

Abraham vội nói:

“Khoan đã! Tôi đến đây là để tìm ba đứa trẻ vừa được công hội mạo hiểm giả gửi đến. Bà đưa tôi đi gặp chúng trước được không?”

Mary gằn giọng đáp:

“Ngài muốn tìm bọn trẻ làm gì? Bọn tôi đã kiểm tra kỹ rồi, chúng nó không dính líu gì đến phù thủy đâu!”

Câu này của Mary có ngụ ý bảo Abraham rằng nhà thờ thuộc giáo hội ánh sáng đã chứng nhận bọn trẻ trong sạch, thợ săn phù thủy như lão đừng hòng động đến chúng. Abraham dĩ nhiên hiểu rõ ý tứ của Mary, cũng như nguồn gốc của sự lạnh lùng bà dành cho lão vậy. Tuy biết hết nhưng Abraham không cảm thấy buồn lòng, vì hành trình săn phù thủy của mình mà lão đã trải qua trăm đắng nghìn cay, chút mặt nặng mày nhẹ của một nữ tu đâu nhằm nhò gì.

Abraham vẫn giữ nét điềm nhiên, chậm rãi trả lời:

“Tôi chỉ cần hỏi đứa trẻ ấy một chút rồi sẽ đi ngay.”

Mary không đáp, bà ta hừ một tiếng bằng giọng mũi, xoay người trở vào, nhưng không đóng cửa, rõ ràng cố ý bảo Abraham đi theo. Abraham với Mary quen biết đã lâu, biết vị nữ tu này không ưa nói nhiều nên chỉ lẳng lặng đi theo bà.

Hai người đi băng qua một dãy hành lang rất dài, tuy Abraham cũng vào ra nơi này vài lần trước đây rồi nhưng lão tới lui vội vã nên không để ý, giờ lão được Mary dẫn lối, thấy bà ta rẽ trái quẹo phải, đi mãi chẳng tới, mới chợt nhận ra nhà thờ rộng hơn trong tưởng tượng của lão nhiều. Abraham cứ theo Mary đi đến hết hành lang thì đến một căn phòng nho nhỏ, lão thấy đường đi ngoằn ngoèo lại nằm khá xa các phòng ốc khác, không khỏi lấy làm lạ, nghĩ thầm:

Tại sao nhà thờ lại cấp cho bọn trẻ ở nơi xa như vậy nhỉ?

Mary gõ cửa phòng ba lần rồi nói:

“Là ta, Mary đây.”

Bên kia cửa không có ai đáp lại, nhưng có tiếng mở chốt cạch cạch, một cô gái tóc đen, tuổi chừng hai mấy bước ra. Abraham trông thấy liền thốt lên:

“Ủa! Sofia!”

Thì ra cô gái ấy chính là Sofia, người từng được nhóm Vetox cứu giúp. Lão Abraham trông thấy con gái đỡ đầu, thoạt tiên thì bất ngờ lắm nhưng ngay lập tức lão đã đoán ra mọi chuyện, liền nhìn Mart mắng thầm:

Cái bà này! Rõ ràng bảo dẫn đi gặp ba đứa trẻ giờ lại dẫn ta tới đây là sao?

Còn Mary làm thinh nhìn Abraham mà cười nhạt, ánh mắt như muốn nói:

Ta đâu nói là dẫn lão đi gặp ai đâu, là lão tự đi theo ta chứ bộ.

Abraham thấy thái độ Mary liền biết bản thân mắc lừa, đàng xuôi theo diễn biến, mỉm cười với Sofia, nói:

“Cha nghe tin con và Viola bị cướp tấn công nên tới thăm. Mẹ con con ổn chứ?”

Sofia không ngờ người cha đỡ đầu đột ngột xuất hiện nên hơi bỡ ngỡ nhưng thấy ông tỏ ý quan tâm liền vui vẻ mỉm cười, dùng thủ ngữ trả lời lại.

Abraham thấy cô ở một mình liền hỏi:

“Viola đâu rồi hả con?”

Mary liền nói chen vào:

“Nó đang chơi với bọn trẻ mồ côi ngoài vườn ấy.”

Abraham nghe vậy thì hơi cau mày, hỏi:

“Ba đứa trẻ mới tới có ở đó không?”

Mary thấy lão ta quan tâm con gái đỡ đầu thì ít mà hỏi chuyện thiên hạ thì nhiều liền rủa thầm:

Đúng là một lão già vô tâm!

Bà ta bực mình, thanh âm cũng trở nên sắc lạnh hơn hẳn:

“Hai trong ba đứa là trẻ sơ sinh, chạy chơi bên ngoài có một đứa thôi! Lão muốn điều tra sao chả biết gì hết vậy?”

Abraham bị móc mỉa tuy không vui trong lòng nhưng lão vốn giỏi kiềm chế, nóng giận gì đều chẳng lộ bao giờ, chỉ nhẹ nhàng bảo:

“Vậy hãy dẫn ta đến vườn đi!”

Mary hừ lạnh một tiếng, không thèm trả lời. Thấy vậy Abraham liền xoay sang Sofia, cười nói:

“Con à, lâu rồi ta không gặp Viola, con hãy dẫn ta đi gặp nó nhé.”

Sofia nghe nữ tu Mary nhắc đến điều tra liền biết người cha nuôi này là đến vì nhiệm vụ gì đó. Cô cũng không lấy đó làm ngạc nhiên, vì cô đã hiểu quá rõ tính tình Abraham rồi, ngược lại cô càng sinh lòng tò mò với đứa trẻ mà lão muốn gặp, bèn gật đầu đồng ý rồi dẫn lão đi. Nữ tu Mary thấy thế liền trách thầm:

Cái cô này! Ta tạo cơ hội cho cha con cô nói chuyện, sao lại dẫn lão đi chứ!

Tuy nghĩ như thế nhưng bà không lên tiếng, cứ ôm bụng tức mà lủi thủi theo sau.

Khác với Abraham, Sofia là đầu mối chuyên bán các đồ gia dụng cho nhà thờ, cô ra vào nhiều lại là người tinh tế nên thông thuộc gần hết đường ở đây. Abraham cứ đi theo cô, một lúc sau bỗng ngửi thấy mùi hương hoa cỏ, biết là sắp tới nơi. Lão thầm nghĩ bản thân cả đời luôn bôn ba cực khổ nếu về già được nghỉ hưu nơi hoa thơm cỏ mọc, cây cao bóng mát thì còn gì bằng.

Sofia, Abraham và Mary đi thêm một chút nữa, mùi hương càng đậm dần, ba người vòng qua một luống hoa, bỗng Mary hét lên thất thanh:

“Á!”

Sofia cũng tái xanh mặt mày, Abraham há hốc mồm kinh ngạc. Chỉ thấy dưới thềm cỏ xanh mơn mởn, trên bụi hồng thắm tươi, là hai mươi mấy thi thể của nữ tu, ai ai cũng há mồm mở mắt, chết cứng khắp khu vườn.

Abraham vội vàng tiến lên, nhìn một vòng khu vườn, nhưng chỉ thấy tử thi nữ tu chứ không có chút bóng dáng đứa trẻ nào hết. Trước tình huống đáng sợ này, khuôn mặt hồng hào của Abraham nhạt đi, lão quay sang Mary, đưa ngón trỏ lên miệng ngụ ý hãy giữ im lặng.

Nhưng Mary vẫn cứ la làng mãi, dường như chịu kinh hãi quá độ nên thần trí bất thường. Sofia không còn cách nào đành đưa tay bịt mồm bà ta lại, không cho làm ồn nữa. Abraham lúc này mặt mũi trở nên nghiêm trọng, lão đảo mắt một vòng, từ từ cẩn trọng lùi về phía Mary, rút ra một cái khăn mùi xoa, dùng thủ ngữ bảo Sofia:

Con dùng nó bịt miệng bả lại thật chặt, rồi mau lựa con đường gần nhất dẫn ta rời khỏi đây!

Sofia tuy không sợ đến mức mất hồn như Mary nhưng là một người mẹ, việc lo cho con cái đã là bản năng, cô liền dùng thủ ngữ đáp:

Còn Viola... con không đi đâu hết nếu chưa tìm được con bé!

Thường ngày cô trông hiền dịu vâng lời bao nhiêu thì giờ đây lại kiên cường mạnh mẽ bấy nhiêu, ngay cả người cứng cựa như Abraham mà cũng phải lép vế vài phần. Nhưng rốt cuộc cũng chỉ có Abraham giữ được cái đầu lạnh, tình hình này mà đi tìm người thì mạo hiểm khôn lường, chi bằng tạm rút rồi tìm thêm hỗ trợ mới là kế tối ưu toàn diện. Lão đang định mở lời khuyên con gái đỡ đầu thì bỗng nhiên tiếng chuông nhà thờ vang lên dồn dập, thanh âm hỗn loạn tựa lời cầu cứu, toàn bộ thành Sagrion đều nghe rõ ràng.

Mary nghe tiếng chuông liền hoàn hồn trở lại, kéo tay Sofia ra, ánh mắt như người mất trí nhìn về phía tháp chuông, lẩm bẩm:

“May... rồi... có người... còn... còn sống.”

Đáy mắt của Sofia ánh lên một tia hy vọng, rằng đứa con gái bé bỏng của cô vẫn còn bình an. Riêng Abraham thì tái mặt than thầm:

Rung chuông như vậy tuy có thể thông báo cho mọi người nhưng bản thân sẽ bị lộ vị trí, rồi thành mục tiêu của kẻ thù. Hừm, ta có nên đi cứu người đó không?

Nếu Abraham chỉ có một mình thì lão chẳng ngần ngại đi cứu người đánh chuông ngay, nhưng giờ bên cạnh lão có hai người phụ nữ chân yếu tay mềm, nếu có chuyện thì khó mà bảo toàn cả hai, thành ra lão chần chừ không quyết định được.

Ngay lúc Abraham còn đương do dự, đột nhiên Mary hét lớn:

“Á! Xác sống!”

Abraham giật mình nhảy vọt về sau, tay phải cắp Mary tay trái ôm Sofia, đôi chân lão lùi liên tiếp đến khi lưng chạm tường mới dừng. Nhìn lại trong vườn các thi thể của nữ tu từ từ đứng dậy, loạng choạng bước đi, nếu Abraham không nhanh nhẹn thì cả ba đã bị bao vây rồi.

“Một, hai, ba... hai mươi chín con Zombie.”

Abraham vừa thả Sofia và Mary xuống vừa lẩm nhẩm đếm. Lão làm mạo hiểm giả đã lâu, nhìn qua liền biết các tu nữ đã thành Zombie, một giống undead cấp thấp, vì chỉ đơn giản là những cái xác biết đi nên còn được gọi là xác sống. Đối với Abraham thì lũ này chả là cái thá gì, nhưng lão tự nhủ không được chủ quan, bởi vì muốn thành Zombie thì xác chết phải vị chôn ở vùng đất giàu năng lượng đen ít nhất nửa tháng, đằng này các xác chết vẫn còn mới, chưa gì đã thành Zombie thì quái lạ quá chừng. Abraham dựa vào kinh nghiệm của mình suy đoán kẻ đứng đằng sau chuyện này phải là một Necromancer, chỉ có năng lực của chúng mới có thể tạo thành undead nhanh thế. Lão nghĩ đến đây thì không khỏi rùng mình, đảo cặp mắt hoang mang nhìn ra bốn phía, tự nhủ:

Đối phương ở trong tối mà mình ở ngoài sáng, còn ở lại đây thì còn bất lợi.

Ý nghĩ của Abraham còn chưa dứt, bỗng nhiên mây đen ở đâu ùn ùn kéo đến che hết cả mặt trời, không gian lập tức tối đen như mực. Abraham biết nguy hiểm ập đến, chẳng thèm quan tâm đến bản thân nữa, vội hét lên:

“Thánh thần của ánh dương vĩnh hằng, ta lấy tuổi đời của mình làm vật trao đổi. Đến bảo vệ ta hỡi người gác cổng thiên đường!”

Ngay khi Abraham dứt lời, từ giữa sân vườn đương chìm trong bóng tối bỗng lóe lên những tia sáng chói lòa, không khí xung quanh trở nên ấm áp một cách diệu kỳ. Từ trong hư vô, một người xuất hiện với đôi cánh trắng tinh trên lưng, hào quang người ấy toả ra soi sáng khắp khu vườn, lộ diện rõ rệt những con Zombie đang tiến gần đến ba người Abraham, Sofia, Mary. Người đó chính là một thiên sứ được Abraham triệu hồi.

Ánh sáng là kẻ thù của bóng tối, lũ Zombie vốn hình thành từ cái chết cho nên căm ghét sự sống và hận thù ánh sáng chính là bản năng của chúng. Sự hiện diện tinh khiết của vị thiên sứ với chúng chẳng khác nào một cái gai trong mắt, một kẻ thù phải bị ưu tiên tiêu diệt. Gần như ngay khi thứ hào quang ấm áp của thiên đàng xuất hiện, tất cả Zombie đang nhắm đến nhóm Abraham lập tức dừng lại và chuyển hoàn toàn địch ý sang vị thiên sứ vừa mới hiện thân.

Trước sự bao vây của những tạo vật ô uế, vị thiên sứ chậm rãi hướng về phía Abraham cúi chào một cái, Abraham cũng bị khẽ gật đầu đáp lễ, cả hai đều trông thật điềm tĩnh một cách bất ngờ. Sofia và Mary tuy cực kỳ căng thẳng nhưng trông thấy cảnh ấy bất giác cũng tự thấy yên tâm.

Chỉ thấy vị thiên sứ giương rộng đôi cánh trắng, tỏa ra hào quang sáng ngời, cỏ cây được rọi đến lập tức đâm chồi nảy lộc còn những Zombie bị chiếu trúng liền hóa thành tro bụi, chỉ trong chớp mắt khu vườn đang ngùn ngụt tử khí đã trở thành một chốn địa đàng xinh tươi.

Mary trông thấy hiện diện thần thánh ấy liền quỳ xuống, hai tay chắp lại, thành khẩn cầu nguyện:

“Thiên sứ của ánh sáng. Thiên sứ của thiên đường. Xin rủ lòng thương với các tông đồ tội nghiệp, xin bảo vệ chúng con khỏi bóng tối và cái ác.”

Trái với những lời thần chú của Abraham, những câu khấn của Mary đơn giản chỉ là những lời trong kinh ánh sáng, thứ kinh mà các nữ tu phải niệm hàng ngày, bây giờ lôi ra đọc chẳng có tác dụng gì. Abraham thấy ở tình huống này mà bà ta còn tụng kinh được thì chỉ biết lắc đầu. Sofia đứng cạnh, trông thấy mái tóc muối tiêu của lão trong chớp mắt đã bạc trắng, khuôn mặt có thêm nhiều nếp nhăn, biết người cha đỡ đầu này đã dùng tuổi thọ để triệu hồi thiên sứ, trong lòng không khỏi chua xót vô cùng, tuy nỗi lo cho con gái cũng không hề giảm nhưng cô đã lấy lại được sự bình tĩnh để suy xét tình hình, bèn dùng thủ ngữ hỏi Abraham nên làm gì tiếp theo.

Lúc này tiếng chuông nhà thờ vẫn cứ ngân vang mãi, Abraham không khỏi nghi ngờ, nghĩ thầm:

Người này một là kẻ ngốc, hai là anh hùng. Phải đi xem thử là ai mới được!

Ban đầu lão vốn chần chừ không muốn mạo hiểm, nhưng giờ tuổi thọ cũng đã bỏ ra, thiên sứ cũng đã triệu hồi, đâm lao thì phải theo lao, được thiên sứ bảo hộ thì có thể yên tâm mà đi cứu người. Lão bèn nói:

“Chúng ta tới tháp chuông xem thử.”

Sofia nghe vậy liền tán thành. Được thiên sứ soi đường, Sofia chỉ lối, mọi người nhanh chóng tiến đến tháp chuông.

------------------

Trước đó nửa tiếng, tại một căn phòng cách âm thuộc trụ sở công hội mạo hiểm giả, hai vị nguyên lão Bruno và Agatha đang luận bàn về tình hình thành Sagrion.

“Hi vọng Lorence và Lance hay tin về sớm.”

Bruno cất lời bằng giọng nói khàn khàn, tuy không khó nghe nhưng trong căn phòng vừa im lặng vừa trống trải, thanh âm không khỏi vang vọng và trở nên ồn ào.

Ngồi đối diện với Bruno là Agatha. Bà ta không nói lời nào, chậm rãi rót một tách trà rồi uống ực một cái cạn sạch. Nước trà vốn đang nóng, hơi nước bốc lên nghi ngút mà bà cũng chẳng thèm thổi, dáng vẻ cũng cực kỳ điềm nhiên. Bruno thấy thế, đôi mày bạc hơi nhướn lên, nói:

“Bà đang giận tôi à?”

Agatha không đáp lại, khẽ hừ một tiếng bằng giọng mũi. Quen biết nhiều năm, Bruno biết rõ mỗi khi Agatha không vui đều sẽ như thế. Thường thì lão chỉ việc để bà ta yên tĩnh một ngày là sẽ tự nguôi ngoai. Nhưng hiện giờ tình thế cấp thiết Bruno cần phải bàn bạc với Agatha ngay, vậy mà bà ta vẫn cứng đầu không chịu hợp tác, khiến lão vừa nôn nóng vừa bực mình mà không sao làm gì được. Một lúc sau lão nảy ra một kế, bèn mỉm cười nói:

“Ba người đó không xứng đáng để thành hạng kim cương đâu.”

Lời nói vừa buông, sắc mặt Agatha lập tức sầm xuống, ánh mắt tựa gươm đao phóng ra một tia nhìn đáng sợ.

“Theo ông thì thế nào mới xứng?”

Bà ta tuy vừa già nua vừa nóng tính, nhưng giọng nói thì cực kỳ lảnh lót dễ nghe, dù đang nổi giận mà vẻ yêu kiều trong thanh âm chẳng hề giảm sút. Lão Bruno vốn luôn giữ vẻ đạo mạo cũng không khỏi bị lay động, trước cơn giận của Agatha lão lại nở một nụ cười si mê, mắt cứ trân trân nhìn bà.

Thực ra thời trẻ Agatha chính là một mỹ nhân sắc nước hương trời, tuy qua nhiều năm dung nhan không tránh khỏi tàn phai, nhưng chất giọng phong thái vẫn y nguyên thuở trước. Lão Bruno cũng từng có thời chết mê chết mệt với bà, dù giờ đây cả hai đều đã gần đất xa trời, nhưng lão vẫn còn lưu luyến tình xưa.

Agatha thấy lão ta nhìn mình chằm chằm bèn đưa tay tát một cái thật mạnh, quát:

“Tôi hỏi sao ông ngậm câm vậy hả?”

Bruno hơi giật mình, không giận cũng không trách, chỉ lấy tay xoa nhẹ lên má liền hết sưng ngay, mỉm cười nói:

“Muốn thành hạng kim cương thì phải đạt đủ trung, công, dũng. Ba người này đã cứu bà thì coi như dũng khí và công trạng cũng đủ rồi, nhưng lòng dạ là gian hay trung thì còn chưa biết được!”

Agatha thấy lão ta cố ý chịu một tát của mình, lửa giận tiêu quá nửa, nhưng mặt mày vẫn cứ chằm dằm.

“Ý là ông nghi ngờ về lai lịch của họ chứ gì?”

Bruno gật đầu đáp:

“Bà nghĩ kỹ thử đi, ba mạo hiểm giả cấp đồng vừa gia nhập hai ngày tình cờ cứu được nguyên lão trong lúc làm nhiệm vụ đầu tiên.”

Nói tới đây lão nở một nụ cười trào phúng:

“Hà hà ta từng tuổi này rồi cũng chưa nghe vụ nào trùng hợp đến vậy, dù thế nào cũng quá đỗi đáng ngờ. Ai mà tin cho nổi!”

Cơn giận của Agatha vốn đang đà nguôi ngoai, nhưng nghe thấy lão Bruno có vẻ mỉa mai mình thì lập tức bùng lên lại, giơ tay đập mạnh xuống bàn trà rồi chửi to:

“Ông móc mỉa ai đấy hả!”

Dứt lời bà ta quơ lấy ấm trà trên bàn chọi thẳng vô mặt Bruno.

Bruno chỉ mỉm cười đưa tay nhẹ nhàng đón lấy cái ấm, rồi đặt nó xuống bàn lại. Agatha ra tay nhanh nhẹn dữ dằn nhưng động tác cũng chỉ đơn thuần là cầm lên rồi ném, còn Bruno thì ung dung nhàn nhã nhưng thao tác đưa tay hứng ấm sao cho nước trà ở trong không đổ ra thì phức tạp hơn nhiều, chỉ nhiêu đây cũng thấy sự chênh lệch giữa hai vị nguyên lão là không hề nhỏ.

Agatha thấy mình không làm gì lão Bruno được, bất giác khuôn mặt hơi đỏ lên, nhưng bà ta không chịu kém, cao giọng nói:

“Chuyến đi của tôi lần này cũng không nhiều người được biết, muốn phục kích phải có thời gian địa điểm rõ ràng, lần phục kích này chắc chắn là do nội gián. Vả lại đêm qua tôi đã bại trận rồi, nếu họ là đồng bọn với đám Goblin thì cần gì phải ra tay cứu tôi chứ!”

Bruno ngẩn ngơ trong giây lát rồi chậm rãi đáp:

“Những gì bà nói chỉ chứng minh họ không cùng một giuộc với bọn phục kích mà thôi, chứ chưa thể hiện rằng họ trong sạch hay đáng tin chút nào. Chuyện thăng hạng tạm gác qua một bên, tôi đã gửi thư cho hai nguyên lão kia rồi, chờ họ về chúng ta hãy bàn tiếp!”

Agatha biết mình đuối lý, nhưng cũng không phản ứng gì, chỉ nói:

“Vậy ông còn mời họ tới đây làm gì? Người ta cất công tới rồi không thưởng gì hết thì chẳng phải bất công lắm ư!”

Bruno lạnh lùng nói:

“Cứ tạm bày tiệc chiêu đãi trước, để bọn họ yên lòng mà lơi lỏng cảnh giác. Hà hà, rượu vào lời ra, thế nào cũng lộ sơ hở thôi!”

Biết không thể cản nổi lòng nghi kỵ của Bruno, Agatha khẽ thở dài một hơi, chẳng nói thêm lời nào nữa.

Bỗng lúc này, một chàng trai tóc vàng hớt hơ hớt hải chạy vào, chính là cận vệ Louis của Agatha. Agatha thấy cậu ta tự tiện vào phòng như vậy toan buông lời quở trách nhưng Bruno đã hỏi trước:

“Sao vậy Louis? Cậu mới hồi phục sao không nghỉ ngơi mà chạy tới đây làm chi?”

Louis thở hổn hển thưa:

“Hai vị nguyên lão. Không… không xong rồi! Mấy mạo hiểm giả đi cầu viện chết hết rồi!”

Agatha và Bruno tái mặt, bất chợt ù cả tai. Bruno hít sâu một hơi, trấn tĩnh lại, hỏi Louis:

“Thi thể họ đâu?”

Louis đáp:

“Ở đại sảnh ạ.”

Agatha và Bruno liếc nhìn nhau, không nói gì nữa, nhanh chóng bước ra đại sảnh. Chỉ thấy dưới nền đá hoa cương trắng của trụ sở công hội mạo hiểm giả đặt mấy chục xác chết, các mạo hiểm giả cấp đồng và sắt liên tục khuân thêm thi thể vào. Agatha và Bruno cả đời trải qua không biết bao nhiêu sóng gió nhưng trước tình cảnh này cũng xót xa không thể nói nên lời.

Louis run run nói:

“Tất cả đều không có lấy một vết thương... cũng không có dấu hiệu trúng độc... Lạ nhất là đám ngựa họ cưỡi, chúng mang xác họ về thành liền ngã ngăn ra chết, không xác định được nguyên nhân.”

Bruno kinh nghiệm rất nhiều nhưng cũng chưa từng nghe trường hợp lạ lùng đến thế, bất giác trong lòng dâng lên một nỗi bất an không sao tả được.

Louis trông thấy sắc mặt Bruno ngày càng nghiêm trọng, không dám nói nhiều chỉ lần lượt báo cáo:

“Hiện đàn ngựa được để tạm ở sau công hội. Kiểm điểm nhân số tổng đủ chín mươi bảy người và chín mươi bảy ngựa.”

Lúc này có hai mạo hiểm giả khiêng một xác trên cáng tiến vào. Thi thể đó là một ông già mặc áo choàng đen, cổ đeo mề đay bạch kim, tay ông ta vẫn còn nắm chặt lá cờ hiệu khẩn cấp của hội mạo hiểm. Agatha thẫn thờ, lẩm bẩm:

“Mới rời thành hơn một tiếng thôi mà...”

Bruno chỉ thở dài im lặng, nhất thời đại sảnh sáng sủa nhuốm màu tang thương.

Hai vị nguyên lão đang muộn phiền thì có ba người nước da đen sì dẫn ba người cực kỳ xinh đẹp bước vào, chính là ba hộ vệ của Bruno dẫn nhóm Vetox về đến. Cùng lúc ấy có vài nữ hầu dẫn ba thành viên nhóm Golden Eyes là Galvin, Tim và Thomas tới. Thì ra Bruno sợ nhóm Vetox sinh nghi nên cũng cho gọi nhóm Golden Eyes, lai lịch ba người này đã được xác định rõ ràng nên Bruno chỉ sai mấy nữ hầu bình thường đi mời.

Nhóm Golden Eyes thấy nhóm Vetox cũng được mời đến tuy rằng vui vẻ nhưng trước mặt nguyên lão họ không dám cười đùa nhiều, chỉ chào hỏi mọi người theo lệ mà thôi.

Bruno trông thấy ba người xinh đẹp bất thường liền cảm thấy sự nghi ngờ của mình đúng đắn, nhưng lão đang đau đầu vì cái chết của các mạo hiểm giả nên không còn tâm trí dò la ba người nữa, bèn ra vẻ bề trên, nhàn nhạt nói:

“Làm phiền cô cậu phải đến tận đây.”

Ba người bọn Vetox và nhóm Golden Eyes từ ngoài vào đã thấy thi thể nằm xếp lớp, ít nhiều đoán được có chuyện. Vetox tinh ý thấy thần sắc mọi người trong sảnh không giấu được vẻ lo âu, đương tính hỏi thăm thì nhận thấy ánh mắt của ông già trước mặt nhìn mình có chút dị thường, lại nghe thấy những mạo hiểm giả khác gọi ông ta là nguyên lão, liền biết người này là một kẻ đáng gờm nên chỉ nở một nụ cười nhợt nhạt, chào hỏi nguyên lão Agatha đứng ngay đó:

“Xin chào hai vị nguyên lão.”

Vetox vốn có ý dùng thuật thôi miên để tăng thiện cảm nhưng chợt nhận ra ngay khi bước vào trụ sở công hội thì thứ sức mạnh kỳ lạ từng làm cậu và hai cô bạn suýt hiện nguyên hình tăng lên đáng kể, chứng tỏ nguồn phát ở gần đây. Cậu bèn không dùng thuật thôi miên nữa, dành ma lực để củng cố lốt người. Giọng nói bình thường của cậu vốn cũng đã dễ nghe nên ngoại trừ Bruno bụng dạ đa nghi ra mọi người ai nấy đều sinh thiện cảm với cậu.

Ngay cả Agatha vốn đang buồn rầu thối ruột cũng gượng cười đáp:

“Không cần đa lễ vậy đâu.”

Hai người đang chào qua hỏi lại thì bất thình lình tiếng chuông nhà thờ phía Nam gióng lên liên hồi. Tất cả mọi người trong đại sảnh đều giật mình, Bruno liền quay sang ba người hộ vệ của mình, bảo:

“Các người mau đi xem thử...”

Lão chưa dứt lời thì đột nhiên có mấy mạo hiểm giả cấp đồng hét lên thất thanh:

“Zombie! Zombie!”

Mọi người kinh ngạc nhìn lại thì thấy các xác mạo hiểm giả dưới nền đều đồng loạt bật dậy, mấy mạo hiểm giả cấp đồng, cấp sắt kinh nghiệm non kém không kịp trở tay, chốc lát đã có người mất mạng, cục diện trong sảnh rối loạn vô cùng. Nguyên lão Bruno vội nói lớn:

“Tất cả bình tĩnh! Chúng chỉ là Zombie thôi!”

Lão vừa dứt lời thì bỗng nhiên ánh kim lấp loáng, một lưỡi phi đao vụt đến. Bruno nghe tiếng gió rít ghê gớm liền biết lực ném đối phương rất mạnh tuyệt không phải của mạo hiểm giả cấp sắt hay đồng. Lão nghĩ nếu cúi xuống né thì người sau lưng mình ắt dính đòn cho nên không màng nguy hiểm vung tay chụp gọn ngọn phi đao.

Gallyvia lúc này đột nhiên lên tiếng:

“Bọn này không chỉ là Zombie thôi đâu!”

Bruno nghe thế không khỏi hãi hùng, nhìn xung quanh đại sảnh quả nhiên thấy bọn Zombie, con thì múa kiếm con thì giương cung, thậm chí còn có vài con phóng ám khí như phi đao, phi tiêu y hệt như người còn sống. Chỉ trong nháy mắt, mặt lão không còn huyết sắc, gằn giọng nói:

“Zombie cấp cao! Nguy rồi!”

Thì ra thi thể mạo hiểm giả ở đây đều có cấp vàng hoặc bạch kim, sinh thời họ là những người tinh anh nhất của hội mạo hiểm giả, tuy việc chết rồi thành Zombie đã khiến họ yếu đi vài phần nhưng bản lĩnh lúc sống vẫn còn rất lợi hại, được tính vào hàng cao cấp hơn Zombie bình thường nhiều.

Ngay lúc này nắng vàng chợt tắt, không gian tối đen mịt mùng. Zombie trong bóng đêm như cá gặp nước, hổ về rừng, đồng loạt kêu lên những thanh âm ma quái mà bất kỳ sinh vật sống nào cũng phải khiếp sợ. Những mạo hiểm giả cấp đồng và sắt mất đi ánh sáng không thể giữ được bình tĩnh, nhất thời tiếng la khóc, quát tháo, binh khí va chạm vang rùm cả tòa đại sảnh.

Vetox, Sunora và Gallyvia có thể nhìn được trong đêm, thấy mấy mạo hiểm giả cấp thấp ai nấy đều như phát điên phát khùng, vung vũ khí loạn xạ hòng tự hộ thân. Còn mấy người bản lĩnh cao hơn như hai nguyên lão, hộ vệ và nhóm Golden Eyes thì đều trấn tĩnh tựa lưng vào nhau mà phòng thủ.

Trong bóng tối mịt mù làm lòng người hoảng hốt, thị giác hoàn toàn bị vô hiệu, lũ Zombie với khả năng nhìn xuyên đêm trong chốc lát đã tàn sát phân nửa số mạo hiểm giả cấp đồng và sắt. Vetox thấy tình thế không ổn, dùng chất giọng cực khẽ nói với Sunora và Gallyvia:

“Đây là tác phẩm của ác quỷ vùng đất chết! Chúng ta cứ tùy cơ ứng biến mà hỗ trợ đám con người, trước mắt thì Sunora hãy mau đốt đèn lên đi!”

Sunora vung tay một cái, bốn năm quả cầu lửa bay vụt ra, lơ lửng giữa không trung, soi rõ tình hình trong sảnh. Lúc này các mạo hiểm cấp đồng đã tử thương gần hết, chỉ còn lại hai mươi mạo hiểm giả có chút thực tài nên chưa bỏ mạng, nguyên lão Agatha thấy thế liền cùng Louis xông lên, đánh dẹp bớt Zombie hòng cứu lấy những người còn sống. Hai người chia ra trái phải mà tiến công, chỉ thấy Agatha áo trắng phiêu dật, Louis kiếm bạc đâm chém, trong giây lát đã hạ bốn năm con Zombie.

Lúc này bỗng nhiên có một tiếng khà ghê rợn vang lên, trước mặt Louis đã xuất hiện một ông già mặc áo choàng đen, tay cầm cờ hiệu khẩn cấp của mạo hiểm giả. Louis trông thấy trên cổ đối phương đeo mề đay bạch kim, biết là một Zombie cấp cao, nhưng cậu tự phụ thực lực bản thân đã bước một chân vào ngưỡng cửa hạng kim cương nên không hề sợ hãi mà càng bình tĩnh ứng phó. Đột nhiên nghe nguyên lão Bruno quát lớn:

“Hippo đó, nhảy lên mau!”

Louis tuy không hiểu chuyện gì nhưng thân thể thức thời phản ứng theo, nhún người nhảy vọt lên cao hơn hai thước, chợt nghe thấy tiếng rẹt rẹt, một tia sét phóng từ mồm con Undead bay sát chân cậu, nếu chậm xíu nữa đã chết toi rồi.

Nguyên ông già áo đen kia lúc sống tên là Hippo, vốn là một pháp sư, nhưng ông ta rất dị, pháp sư thường phóng phép từ tay còn ông ta thì khà ra từ mồm, nên còn được gọi là Hippo khà khà. Biệt danh khôi hài, cùng khả năng độc lạ này các mạo hiểm giả ở Sagrion ai cũng biết nhưng Louis là hộ vệ của Agatha không sống ở đây nên không biết chuyện. Ban nãy mà Bruno không hét nhảy lên mà chỉ chỉ kêu đề phòng ma thuật, thì Louis ắt sẽ tập trung chú ý đôi tay của Hippo, phép sấm sét bắn ra từ miệng cậu không thể nào né kịp.

Con Zombie Hippo khà khà thấy Louis tránh được đòn liền phóng ra mấy phép nữa. Nhưng Louis đã biết tỏng chiêu trò của nó nên dễ dàng tránh được. Bruno lại lớn tiếng nhắc:

“Coi chừng lửa địa ngục của lão!”

Quả nhiên Hippo bắn phép một hồi không được liền phun ra một quả cầu lửa xanh lè. Louis thấy ngọn lửa màu lạ liền vội tung mình tránh né. Nhưng không ngờ ngọn lửa ấy như có linh tính, đuổi theo cậu sát nút không rời. Ngay lúc này Hippo khà khà lại bắn ra một tia sét về phía Louis. Cậu ta tái mặt nghĩ thầm:

Tránh mãi thế này thì làm sao thắng được!

Nghĩ thế bèn khom người tránh tia sét đánh đến, kiếm trên tay nhằm một Zombie gần đó mà sả ngang hông thành hai nửa, rồi thuận thế nắm nửa trên phóng trúng quả cầu lửa, chân tiện thể đá nửa dưới vô mặt Hippo. Đòn này một mũi tên trúng tận ba đích, vừa triệt tiêu quả cầu lửa đang đuổi theo vừa tạm thời ngăn Hippo tấn công tiếp, đồng thời còn tiện đường diệt bớt một Zombie.

Sunora và Vetox thấy thế đều buộc miệng nói:

“Giỏi!”

Hai người tuy cùng khen ngợi nhưng mỗi người lại một ý riêng. Vetox là khen Louis ứng biến tài tình, hành động mau lẹ, còn Sunora là do thấy quả cầu lửa xanh vừa chạm vào nửa thân con Zombie đã cháy ra tro nên lời khen của cô là dành cho phép thuật của Hippo.

Bruno thấy Louis không phải là đối thủ của Hippo liền nói:

“Louis, mau lui ra.”

Louis không dám cãi lệnh nguyên lão nên đành tránh qua. Chỉ thấy Bruno và ba người hộ vệ lạnh lùng tiến lên. Hippo dường như nhận thấy sự nguy hiểm toát ra từ Bruno nên vội phóng ra sấm sét tấn công trước.

Bruno trông thấy chỉ hững hờ phất tay áo một cái thì sấm sét lập tức tan biến. Lão liếc nhìn Hippo rồi lắc đầu than:

“Đáng tiếc!”

Hippo thấy Bruno cứ từ từ sấn tới, vội vàng phóng quả cầu lửa xanh ra, không ngờ Bruno thấy thế chỉ hơi nhếch mép cười, giơ tay áo hứng trọn quả cầu.

Mọi người trông thấy lão làm thế đều há hốc mồm ngạc nhiên, ngay cả những chuyên gia ma pháp như Gallyvia và Sunora cũng không biết ấy là phép thuật gì.

Nguyên lão Bruno thâu quả cầu lửa xong thì vỗ tay một cái, nói:

“Còn không lẹ lên!”

Ba người hộ vệ của ông ta nhanh như điện chớp đã tiếp cận Hippo, nhất bổng hắn tên. Chỉ trong một giây ngắn ngủi những tiếng rắc rắc rắc đồng loạt vang vọng, Hippo khạc khạc kẻ từng làm mạo hiểm giả cấp bạch kim với sức mạnh vượt trội, giờ đây đã trở thành một quả bóng thịt. Chân tay đầu cổ tất cả đều bị bẻ ngoặc vào trong một cách cực kỳ tàn bạo.

Vetox nãy giờ im lặng đứng xem bỗng ơ lên một tiếng, Sunora và Gallyvia cũng tỏ vẻ ngạc nhiên, len lén nhìn sang phía Vetox. Thì ra thủ pháp mà ba tên hộ vệ vừa dùng rất giống với kỹ thuật Vetox sáng tạo, gọi là “thịt viên”. Kỹ thuật này được chỉ được lưu truyền trong nội bộ tộc Vermin Demon, Sunora và Gallyvia do chơi thân với Vetox lâu năm nên có thể dễ dàng nhận biết. Cả hai tự hỏi:

Ba tên đen thui này sao lại học được chiêu ấy?

Còn Vetox lại nghĩ:

Đòn này dùng lực, lối đánh giống đến chín phần mười! Không lẽ con cháu mình vẫn còn sống sót? Nhưng... nhưng... hậu duệ Vermin Demon sao lại truyền kỹ thuật “thịt viên” cho con người?

Trong lúc bọn Vetox còn đang suy tư thì nguyên lão Bruno bước đến gần Zombie Hippo, cúi đầu nhìn cục thịt vẫn còn phát ra tiếng kêu ư ư, Bruno khẽ thở dài, nét mặt lộ vẻ tiếc nuối.

“Cảm ơn vì đã cống hiến! Giờ thì hãy yên nghỉ đi Hippo!”

Đoạn lão phất tay một cái, quả cầu lửa xanh ban nãy từ trong tay áo vọt ra, tiễn đưa Hippo bằng chính ngọn lửa của ông ta.

Louis trông thấy Hippo đã không còn nhưng đàn Zombie vẫn còn quá đông, tự lượng sức mình và Agatha tuy có thể diệt hết nhưng muốn cứu các mạo hiểm giả cấp thấp thì khó, bèn quay sang nhóm Golden Eyes và Vetox, kêu lên:

“Mọi người cùng tiến lên thôi!”

Nói xong liền cầm kiếm bước lên, ba người nhóm Golden Eyes đi sau tiếp ứng. Gallyvia và Sunora chỉ nghe lời của Vetox đều không vội ra tay, hai cô là pháp sư nên đứng ở phía sau cũng không làm người khác nghi ngờ.

Về phần Vetox, cậu thấy nguyên lão Bruno khá lợi hại, hộ vệ của lão lại dường như có bí mật thâm sâu, nếu mạo muội hỏi thẳng ắt chẳng thu được gì, chỉ có cách từ từ điều tra, dù gì ngày tháng còn dài, không cần vội vã. Vetox nghĩ thế, bèn nhát mắt ra hiệu cho Gallyvia và Sunora, ba người cũng nhanh chóng rời vị trí, chia ra mà tấn công.

Không có Hippo cản trở, Louis và Agatha được Vetox với Sunora hỗ trợ nhanh chóng tiêu diệt hết đám Zombie. Nhóm Golden Eyes và Gallyvia thì lo trị thương cho các mạo hiểm giả cấp thấp. Những tưởng tình hình trại trụ sở công hội tạm thời đã tạm thời ổn định không ngờ trong lúc mọi người đang hơi nhẹ nhõm thì bên ngoài vang đến tiếng vó ngựa ác liệt xen lẫn trong đó là thanh âm người khóc la thê thảm. Mọi người trong đại sảnh ngoại trừ nhóm Vetox đều xám mặt, mồ hôi lạnh tuôn ra, nhất thời mọi lời lẽ đều nghẹn lại, không một ai nói gì.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận