Human. Into Darkness: Huy...
Hashur RaH. Kamina
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Lời Bình của Đen và Trắng

Giáo Hội Bí Truyền Cổ Lão N'lahyii

0 Bình luận - Độ dài: 2,532 từ - Cập nhật:

‘Usmuhu’N’lahyii với hình dạng gớm ghiếc và ghê tởm, nhưng Ngài không phải là bề tôi của Quỷ Satan, cũng không phải là Chúa Quỷ, mà Ngài là một Vị Thần hoàn toàn của vũ trụ, cao thượng hơn, phi phàm hơn, vượt trên cả Đức Chúa Trời Yahweh, Jehova, Yeshua và tất thảy mọi Đấng Quyền Năng trên cõi đời này!

Ngài nắm giữ những quyền năng và dạng thức thực sự vượt ra khỏi vũ trụ phàm tục này; và con người e sợ sự hiện diện của Ngài, bởi Ngài nắm trong tay những điều mà ta chỉ có thể mơ tưởng nhưng không dám làm và cũng không làm được! Ngài là Đấng Tri Thức, là Absus ngủ say tại Raahu, và là một với Ar'absus Yahwkabath!

Thờ cúng Ngài, và chúng ta sẽ đạt được những điều không biết và được phép bước vào miền không tưởng sau cái chết! Tôn thờ Ngài, và chúng ta sẽ làm chủ tể của thế giới này. Để rồi tại vùng đất vĩnh hằng, chúng ta là một phần của Ngài và chìm đắm trong sự bất tử toàn năng!’

.

Esoteric N’lahyii, hay tên đầy đủ là Esoteric Elder N’lahyii (Bí Truyền Cổ Lão N’lahyii)—như đã lần đầu được nhắc đến bởi Ahravain Christoph và Andervista Hohenjun, là một nhóm giáo đồ dị thần hoạt động mạnh mẽ vào khoảng cuối thế kỷ XVI cho đến đầu thế kỷ XIX. Trong giai đoạn đầu tiên, thế lực của chúng chủ yếu tập trung ở một số nơi thuộc Đông Anglia nước Anh, xung quanh khu vực Norwich, Cambridge và Ipswich.

Nhìn chung, Bí truyền N’lahyii là một nhóm khá mới so với những giáo phái Bí Truyền Cổ Lão khác—những nhóm đã sớm tồn tại từ hàng ngàn năm trước với quyền lực và sức ảnh hưởng đã thấm vào sâu trong các bộ máy cai trị của những địa vực khác nhau; điều này cũng giải thích được vì sao trong mắt của người dân, chúng là những kẻ dị giáo báng bổ bị ghê tởm, ghẻ lạnh và hắt hủi vô cùng bởi những tín ngưỡng cực đoan mà chúng đã lan truyền.

—Với vai trò là người hé lộ những bí mật và gợi mở những thông tin bị ẩn giấu, tôi sẽ lược qua những gì về giáo hội này, và đương nhiên là trên các cơ sở là sự mở rộng của những thông tin sẵn có—

Quay lại từ thời điểm bắt đầu, Châu Âu thời kỳ trung cổ đã diễn ra mạnh mẽ các cuộc lùng bắt phù thủy, đặc biệt là vào thế kỷ XVI và XVII. Ở Anh Quốc, tuy nạn truy lùng không diễn ra với quy mô lớn như ở Pháp và Đức, cũng không có các phiên tòa xét xử phù thủy nổi tiếng như Würzburg hay Salem, song nơi đây ẩn chứa một mầm mống thậm chí còn độc hại và nguy hiểm hơn. Tính chất của những cuộc truy lùng ở Anh và các nước còn lại trong khu vực là hoàn toàn khác biệt, bởi lẽ những phù thủy bị săn lùng xử giết ở nơi đây đã thực sự có lẩn chứa những kẻ biết sử dụng các loại tà thuật ma quỷ—mà trên thực tế, là tàn dư của một nhóm những Kẻ Báng Bổ thuộc giáo hội Bí Truyền Cổ Lão Usmuhu đến từ Israel.

Cuộc truy lùng diễn ra gay gắt đã khiến cho một số người trong số chúng bắt buộc phải lần nữa liên kết lại với nhau và lập ra một giáo hội mới để cầu lấy những lực lượng mạnh mẽ từ Cõi Mộng—từ Usmuhu’N’lahyii đã từng là tín ngưỡng của chúng và sẽ luôn là tín ngưỡng của chúng, và ngài là Đấng Tri Thức đã phái sinh từ Yahwkabath Toàn Năng.

Usmuhu đang ngủ say tại Raahu trong Điện Cấm Đoán Pkastorith, và thờ ơ với mọi sự đang diễn ra trên đời bởi không một điều gì có thể thoát khỏi sự Toàn Tri của nó, nhưng hóa thân của Usmuhu được sinh ra từ những chất dịch siêu hình của nó trong sự vô thức, hóa thành một dạng thức có tri giác và cảm xúc thực sự—kẻ mang hình hài ma quỷ của một con quái vật bán nhân cao bằng những tòa nhà ba tầng lầu, toàn thân tỏa ra mùi cháy khét và trơn trượt thứ dịch nhờn đen nâu tanh hôi. Không có từ ngữ nào để miêu tả nó chính xác là gì, bởi mặc dù sở hữu những đặc điểm nhỏ lẻ tương đồng với nhiều loài thú vật trên trái đất, nhưng sự kết hợp giữa chúng đã tạo ra một dạng hình giống với những con Chimera cổ xưa nhưng lại tràn ngập sự độc ác và mùi vị của sự cấm đoán bất tường.

Nó có bốn cái đầu dê đực quay về bốn phía, tượng trưng cho những điều ‘đã biết’, ‘chưa biết’, ‘không biết’ và ‘không thể biết’; được tô điểm bởi mười cặp mắt trắng dã như mù lòa mọc ra từ đầu mũi, trong khoang miệng, dưới cằm, ở hai bên lỗ tai, trên đỉnh đầu trọc và những chiếc sừng; sự bất định trong vị trí hoàn toàn không có một quy luật nào, và chỉ chừa lại hai hốc mắt trống rỗng như vực sâu. Miệng của nó như bị xé rách, toác thẳng đến tận mang tai, và từ đó, mỗi ba bốn chiếc lưỡi rắn dài tới bốn-năm inch ở mỗi cái miệng thè ra nhỏ dãi những dịch acid xanh kinh tởm. Nó có thân người, lực lưỡng nhưng mọc đầy lông đen gớm ghiếc; và tứ chi của nó là những cái xúc tu đá nặng trịch, lồi lên những cái gân máu to bằng cả nắm tay người.

Đáng ngạc nhiên? Bởi không có nhiều hóa thân chân thể của lũ Absus có thể có được một hình dạng chi tiết như thế này đâu

Nó không bao giờ để lộ một cảm xúc gì trên khuôn mặt, nhưng sự ác cảm từ cái ngoại hình ấy sẽ luôn ấn định ngay lập tức cái tính báng bổ mà sa đọa của nó tới bất kể ai chứng kiến. Nhưng mặc dù vậy, Usmuhu’N’lahyii vẫn sẽ cho những kẻ cầu xin nó những điều mà chúng muốn, miễn là chúng có thể đem lại những cái giá xứng đáng—và đây cũng chính là nghi thức cốt lõi mà lũ tín đồ ấy vẫn tôn thờ bấy lâu nay. Bí Truyền Cổ Lão ở Israel đã lấy cái tên Usmuhu làm chân danh cho chúng, vậy nên tàn dư của chúng ở Đông Anglia sẽ lấy phần còn lại của cái tên—N’lahyii.

Với tất cả những thành viên thuộc giáo hội, mỗi người trong số chúng đều sẽ sở hữu một mặt dây chuyền lục bảo được chạm khắc những ký tự Ulqthe mang tên bí truyền. Ngoài việc thực hiện các nghi thức hàng thần ở Cõi Ảo Raahu với mục đích đồng hóa người thường trở thành những Kẻ Báng Bổ, chúng còn thường xuyên tổ chức các buổi hiến lế để mượn lấy những tri thức cấm đoán và các sức mạnh siêu nhiên từ hóa thân của Usmuhu’N’lahyii. Với mỗi cuộc hiện lễ này, chúng thường phải sử dụng nhiều loại xác chết của rắn, dê, bạch tuộc, con người ở mọi loại độ tuổi và một số vật chất lạ khác nhau để tạo thành một bình máu với sáu trăm sáu mươi sáu lít. Nhưng chưa dừng lại ở đó, kẻ niệm kinh, người hát thánh ca và những con chiên thành kính—buổi tiệc của Đấng Tri Thức sẽ kết thúc với một vài cái đầu trong số chúng bị gặm nát, như những món tráng miệng tươi sống đi kèm.

Trong thời gian đầu, giáo hội Bí Truyền N’lahyii bắt đầu truyền giáo rộng rãi, chấp nhận mọi loại tín đồ, và khi những tà thuật ghê tởm của chúng đã thu hút được một số nhóm người mê tín mới, thì phần còn lại ý thức được sự kinh tởm đã đẩy mạnh công cuộc lùng bắt. Trước tình cảnh này, bởi chưa có đủ những hiến lễ phù hợp để thực hiện nghi thức, giáo hội đã nhanh chóng bị đẩy lui và buộc phải chuyển hoạt động của mình thành những buổi truyền giáo kín đáo với quy mô nhỏ hơn, và gần như biệt tăm khi cuộc chiến tranh Napoleon mở ra năm 1803.

Tuy nhiên, thực tế thì đây lại là quãng thời gian lột da của chúng.

Đã có một cuộc cải cách vào năm 1815, bọn chúng giờ đã trở về đúng với cái bản chất của lũ tông đồ báng bổ, với đủ loại giáo điều biến thái, trụy lạc và cực đoan, nhưng cũng không kém phần bí hiểm. Cũng chính nhờ sự thay máu này, chúng đã lần nữa kết hợp lại với những người anh em nơi đất thánh xa xôi của chúng như một phần của giáo hội thống nhất. Và dưới sự trợ giúp từ Bí Truyền Usmuhu, sự bành trướng của chúng đã dễ dàng khuếch tán nhanh chóng sang Midlands, và từ từ thẩm thấu vào bộ máy chính quyền của quốc gia với trụ sở chính của chúng được đặt dưới Tháp Đồng Hồ, London; và một thánh đường lớn nữa nằm dưới Vườn Bách Thảo Botanic ở Oxford đóng vai trò như là đường dây kết nối với những người anh em của chúng.

Năm 1858, với những tông đồ được gài vào trong bộ máy chính quyền, chúng đã đứng sau giật dây để quân đội Anh trợ giúp công ty Đông Ấn chiếm đóng thuộc địa Ấn Độ, sau khi cuộc “Binh biến lính Ấn” bị đàn áp. Nguyên nhân đằng sau của vụ việc này là do sự tranh chấp nổi lên giữa chúng và bên Giáo Hội Bí Truyền ở Ấn Độ sau một cuộc đàm phán bất thành khi những nhà sư nước Ấn đã từ chối cho mượn bản sao của cuốn tà thư Amantura bie’Ithgwr. Khi đã chiếm đóng hoàn toàn Ấn Độ và gỡ bỏ sự kiểm soát của công ty Đông Ấn, bè lũ Usmuhu và N’lahyii đã rà soát hết tất cả những tu viện lớn để tìm kiếm cuốn sách. Tu viện Sanchi, Tawang, Sringeri và Rumtek thậm chí đã bị tàn phá nặng nề từ sự việc này, trong khi tu viện Sarnath ở Bihar đã đưa cho chúng thứ mà chúng muốn. Từ đó đến nay, các kiến thức được ghi chép trong cuốn Amantura bie’Ithgwr đã giúp Bí Truyền N’lahyii bắt kịp được với quy mô của những Bí Truyền Cổ Lão lớn mạnh khác trên thế giới. Và cho tới những năm 1960, cuốn tà thư đã được giáo sư Stephen J. Wenger—một trưởng lão của giáo hội—đem về thư viện Đại Học Cambridge trong bí mật để bảo quản.

Năm 1975, một Lễ Trao Đổi mà chúng thực hiện đã rút ra từ trong khe nứt của không gian và thời gian ở Buồng Chứa Chính của Thánh Đường Oxford một tia lực của Nguyên Tố Số Ảo Thứ Hai. Chúng đã dẫn tia lực này đi vào trong cơ thể của một đứa bé sơ sinh vẫn chưa có một ý thức hoàn chỉnh, và để cho tia lực đó thoải mái gặm nhấm bên trong cơ thể đứa bé, cuối cùng biến đứa bé thành một Hydrafon. Trong suốt hai năm sau này, đã có vô số mạng sống bị tước đi chỉ để nuôi dưỡng, cũng như đắp nặn nên con quái vật—một điều tàn ác đến tận cùng mà may mắn là Ahravain Christoph và Andervista Hohenjun sẽ không bao giờ có thể biết được. Một điều rõ ràng là chúng sẽ chẳng có đủ nhân lực và vật lực để có thể đưa con quái phát triển lên kỳ trưởng thành, nhưng chúng rõ là chẳng quan tâm đến điều này.

Tại sao ư? Và mục đích của chúng là gì nữa? Tôi sẽ không trả lời câu hỏi này, bởi đó là thứ sẽ dành cho một câu chuyện khác. Nhưng dù gì thì nó cũng chẳng còn quan trong nữa, bởi biến cố đã ập tới với lũ tín đồ này

Đó là vào năm 1977, bài luận văn của Ahravain xuất hiện đã làm khơi dậy tất cả những sóng ngầm đang cuồn cuộn bên dưới Anh Quốc. Trong khi lũ Usmuhu còn đang cuống cuồng tranh luận với những người anh em của chúng, thì cuốn tà thư mà chúng tôn sùng như thánh kinh là Amantura đã bị Andervista Hohenjun đánh cắp. Nhưng những vận rủi, hoặc giả là sự trừng phạt của bè lũ ác đọa này, chúng còn không dừng lại ở đó; bởi trong khi thực hiện những cuộc thảo luận cuối cùng, thì Andervista và Ahravain đã lẻn vào trong Thánh Đường của chúng, khai mở sự cuồng loạn của con Hydrafon, làm nổ tung một phần Thánh Đường bằng Dịch Lỏng Pandora và để chúng giết chết hàng trăm mạng người ở đó chỉ trong một cái chớp mắt. Và trong sự hoảng loạn vô cùng trước thứ thảm họa ập đến một cách quá đỗi bất ngờ, thì Asmith Johanberg—Chủ Tọa của Thánh Đường và đồng thời là Khế Ước Giả của con Hydrafon—đã bị Andervista cướp đi sinh mệnh. Đồng thời, chính trong lúc ấy Ahravain đã sử dụng một bí thuật được ghi chép trong cuốn sách, và khiến cho chúng, thậm chí là cả thế giới, vô thức quên đi những sự kiện này, cũng những ‘biến cố gốc gác’ trước đó.

Thế là từ trong đống phế tích, lũ N’lahyii tội nghiệp sẽ chẳng hiểu được chuyện gì xảy ra. Chúng đã tổn thất cực kỳ nặng nề, nhưng tâm trí của chúng không cho phép chúng suy tư thêm về những điều đó. Chúng buộc phải thu thập lại hiện trường, hành động trong bí mật, cố gắng khắc phục những hậu quả mà chúng đã phải gánh chịu. Để rồi cuối cùng, chúng khép lại toàn bộ câu chuyện này như một sự vụ không có lời giải thích, và mặc dù nghe có vẻ rất không thể tưởng tượng nổi, nhưng đó mới chính là thứ thể hiện cho uy quyền đến từ cuốn Amantura mà lũ N’lahyii đã để mất.

Song, mặc dù không còn sở hữu bản sao tà thư của Icaltha, cũng như đã nhận về quá nhiều thiệt hại, nhưng giáo hội N’lahyii vẫn còn đó. Lần này, chúng sẽ lại có thể có một cuộc lột xác khác, chúng sẽ lại trỗi dậy từ đống tro tàn, nguy hiểm hơn, và cẩn mật hơn. Và có một điều chắc chắn là, chúng vẫn còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ mãi cho đến tận ngày nay...

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận