Khi tôi mở mắt, cảnh tượng đầu tiên tôi thấy là bản thân đang ở trong một cái nhà thổ.
Tòa nhà sáng rực, lộng lẫy nhất trong khu ổ chuột, dễ nhận ra đến độ không cần ai chỉ đường cũng có thể tìm thấy.
Một nơi mà những người phụ nữ nghèo khổ, thấp hèn, nhưng vẫn bấu víu vào nhan sắc của mình, đổ về và làm việc.
Dĩ nhiên, ban đầu tôi không nhận ra đó là một nhà thổ. Tôi chỉ nghĩ rằng đó là một tòa nhà sang trọngmôi thôi.
Tôi chẳng phí sức đâu mà suy nghĩ sâu xa về những chuyện như thế vào lúc ấy.
Những người lạ mặt vây quanh tôi, nói những lời mà tôi không hiểu, và cơ thể tôi thì hoàn toàn không có chút sức lực nào.
Bạn có thể mong chờ gì từ một đứa trẻ sơ sinh chứ?
Việc tôi mở mắt trong một nhà thổ không có nghĩa là tôi đã sống một cuộc đời phải dạng hai chân cho những tên trả tiền sử dụng.
Nó chỉ đơn giản có nghĩa là tôi được sinh ra ở đó.
Quấn trong một tấm chăn trắng tinh tươm, tôi được một người phụ nữ ôm vào lòng, nước mắt cô ấy rơi xuống khi cô dịu dàng nhìn tôi, hát ru tôi khi tôi khẽ khóc.
Đó là lúc tôi nhận ra—tôi đã chết rồi.
Ban đầu, tôi nghĩ có lẽ mình đã đầu thai làm con nhà quý tộc.
Rốt cuộc, những người phụ nữ bế tôi đều mặc những bộ váy sang trọng, các linh mục trong những bộ áo choàng gọn gàng đón nhận tôi và quấn tôi trong chăn ấm. Căn phòng tôi thoáng nhìn thấy cũng xa hoa đến lạ thường.
Nhưng sự thật sớm được hé lộ.
Thời gian trôi qua, chẳng có người đàn ông nào đến nhận làm cha tôi.
Tuy vậy, mẹ tôi lại rất yêu thương tôi.
Dù sau những ngày dài mệt mỏi vì công việc, bà vẫn ôm tôi vào lòng, dỗ dành tôi, vỗ nhẹ lên lưng tôi và kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích bằng chất giọng dịu dàng và đong đầy yêu thương.
Một đứa trẻ một tuổi bình thường có thể không hiểu những điều đó, nhưng tôi thì không như vậy, những ngày ấy trở thành những ký ức không thể nào phai mờ.
Trừ cái hương nhàn nhạt của khói thuốc vương trên bầu ngực bà, cuộc sống của tôi vẫn rất dễ chịu.
Thời gian trôi qua, tôi cai sữa, học nói, rồi bắt đầu biết đi.
Mẹ tôi dành thời gian—à không, gần như hết toàn bộ—nói chuyện với tôi một cách dịu dàng.
Không giống như những người phụ nữ khác trong nhà thổ, những người thường văng tục khi nói chuyện, mẹ tôi nói năng như thể bà là một tiểu thư có học thức thực thụ.
Thỉnh thoảng, chie thình thoảng, bà sẽ thay đổi.
Bà sẽ gọi một cái tên xa lạ của một người đàn ông nào đó với giọng điệu sắc bén, túm cổ áo tôi và tát tôi một cái thật mạnh vào mang tai.
Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ.
Ngay ngày hôm sau, bà sẽ vừa khóc vừa xin lỗi tôi, đối xử tốt hơn với tôi, và cho tôi ăn những món ngon ngày thường khó thấy.
Những ngày dư dả, bà thậm chí sẽ mua cho tôi một bộ quần áo mới. Tôi tròng chúng vào thì được khen là đẹp lắm.
Mặc dù tôi phải thừa nhận rằng những lần bà bóp cổ tôi thật sự rất hãi hùng.
Không chỉ vì tôi không thể thởvới bàn tay siết chặt của bả quanh cái cổ gầy guộc, mà còn bởi nỗi đau khi móng tay được chăm chút kỹ lưỡng của bà ghim vào da thịt tôi, cào xé tôi đã khiến tôi lạnh sống lưng.
Khi tôi lớn hơn một chút và bắt đầu đi lại thay vì bò, tôi được học chữ từ người quản lý của nhà thổ.
Có lúc tôi thắc mắc tại sao mình không thể có một gia sư hoặc đi học như những đứa trẻ khác, nhưng rồi tôi gạt phăng đi ý nghĩ đó.
Làm gì có gia sư nào chịu đến dạy ở một nhà thổ? Và trường học nào sẽ nhận một đứa trẻ lớn lên trong khu ổ chuột?
Ở một nơi đầy rẫy những kẻ mù chữ, người duy nhất có thể dạy tôi chính là người quản lý, kẻ lúc nào cũng hút thuốc, vắt chéo chân mà đọc báo.
Dĩ nhiên, chủ thực sự của nhà thổ là một quý tộc vô danh nào đó.
Không có quý tộc nào lại hạ mình đến mức tự điều hành một chốn nhơ nhớp và bẩn thỉu như nơi này.
Công việc của người quản lý chỉ đơn thuần là thu tiền, giám sát phụ nữ khi cần, và giữ cái chức một kẻ đại diện mà thôi.
Ông ta có rất nhiều thời gian rảnh và luôn cảm thấy chán, còn tôi thì muốn học chữ.
Thoạt nhìn, có vẻ như tôi là người hưởng lợi nhiều hơn, nhưng có lẽ ông ta cũng cảm thấy thỏa mãn khi tìm được cách giết thời gian.
Có thể ông ta cũng có động cơ thầm kín nào đó.
Ban đầu, ông ta dạy tôi bảng chữ cái chỉ vì tò mò, nhưng khi thấy tôi ghi nhớ chúng một cách nhanh chóng, ông bắt đầu nhiệt tình hơn và dạy tôi nhiều hơn.
Thỉnh thoảng, ông còn nhờ tôi nói với mẹ rằng ông ta rất tốt bụng—điều đó đủ để thấy rằng ông chẳng hề vô tư.
Không chỉ người quản lý, mà cả những phụ nữ xung quanh mẹ tôi cũng rất tốt với tôi.
Tôi không tự hào gì về điều này, nhưng mẹ tôi được xem là ngôi sao của nhà thổ.
Một “át chủ bài” mà chỉ một số ít quý tộc mới có thể chạm tới.
Điều đó không có nghĩa là ai cũng thích tôi.
Một số đứa trẻ khác trong nhà thổ căm ghét và ganh tị với tôi.
Một ngày nọ, chúng lén kéo tôi đi đâu đó, rồi với đôi bàn tay nhỏ bé của mình, chúng đánh tôi hội đồng.
Tôi hét lên và quẫy đạp, khóc lớn nhất có thể, cho đến khi chúng bị mẹ chúng lôi đi xềnh xệch và bị trừng phạt nghiêm khắc.
Sau đó, chúng chỉ còn có thể đứng từ xa mà nhìn tôi với ánh mắt đầy thù hận.
Lũ con trai ít thù địch hơn, nhưng bọn con gái nhìn tôi như thể tôi là một sinh vật ghê tởm, khác xa bọn chúng .
Không phải là tôi quan tâm nhiều đến những gì xảy ra trong nhà thổ.
Dù sao thì tôi cũng không nghĩ đó là cuộc đời mà tôi sẽ gắn bó mãi mãi.
Không giống như những đứa trẻ kia, những kẻ chỉ biết đứng từ xa mà trừng mắt nhìn tôi.
Nhờ có mẹ, cuộc sống của tôi tương đối thoải mái.
Tôi được ăn ba bữa một ngày, và không như những người trong khu ổ chuột gần đó, tôi có một mái nhà không dột nát mỗi khi mưa trút và một chiếc giường êm ái để ngủ mỗi tối cùng mẹ tôi.
Thỉnh thoảng, một quý tộc vô danh nào đó sau khi qua đêm với mẹ tôi sẽ dúi vào tay tôi một ít tiền lẻ, mà tôi sẽ giấu đi với một nụ cười đắc ý.
Nhưng điều đó cũng khiến tôi hơi buồn.
Nếu tôi rời khỏi đây, tôi sẽ chỉ được biết đến như con gái của một phụ nữ làm gái điếm, bị người đời khinh miệt dù tôi có đi đến nơi đâu.
Tôi nhanh chóng gạt bỏ suy nghĩ đó, cảm thấy như mình vừa bất kính với mẹ.
Vậy nên tôi tập trung vào việc học chữ và mơ tưởnv về một tương lai tốt đẹp hơn, lật giở những cuốn tiểu thuyết lãng mạn rẻ tiền và đôi khi là truyện cổ tích mà tôi tìm thấy trong nhà thổ.
Tôi nghĩ rằng nếu ít nhất tôi có thể học đọc và trang bị cho mình một vài kỹ năng, tôi có thể tìm được một việc làm vào một ngày nào đó trong tương lai.
Lúc ấy, tôi vẫn chưa nhận ra thế giới mà mình đã sinh ra thật chất là như thế nào. .
Một ngày nọ, khi mẹ tôi hiếm hoi được nghỉ và nói rằng bà không khỏe, bà nắm tay tôi một cách vụng về và đưa tôi đến một cái hồ.
Đó là lần đầu tiên tôi rời khỏi khu ổ chuột.
Bà thuê một cỗ xe ngựa, mang theo một giỏ bánh sandwich, và hai mẹ con chúng tôi ngồi trên bãi cỏ bên hồ.
Trải một tấm vải xuống đất, chúng tôi vừa ăn bánh vừa ngắm nhìn mặt hồ lộng gió, mây trắng trôi lềnh bềnh trên nền trờ xanh th.
Buổi dã ngoại hôm đó thật sự rất tuyệt vời.
Chúng tôi kết vòng hoa từ những bông hoa dại nhặt được, trang trí lên tóc tôi, và cùng nhau ngước lên bầu trời xanh thẳm, thả hồn theo những luồng suy nghĩ riêng.
Khi mặt trời dần lặn xuống mặt hồ, nhuộm đỏ cả chân trời, mẹ tôi đan chặt tay vào tay tôi và lên tiếng.
Giọng bà nghiêm túc đến mức, trong một khoảnh khắc, tôi tự hỏi liệu bà có đang trở nên điên dại và bà đưa tôi đến đây để dìm chết tôi dưới mặt hồ không.
Ngay khi tôi định bỏ chạy, bà lại nói một điều ngoài sức tưởng tượng của tôi.
“Con gái của mẹ, con yêu dấu của mẹ. Mẹ yêu con.”
Tôi đáp lại bằng nụ cười đáng yêu nhất mà tôi có thể diễn được.
Bà nhìn tôi, nhưng tôi biết bà không thực sự nhìn tôi mà là nhìn ai đó có nét giống tôi.
Bà đang nhìn ai đó khác thông qua tôi.
“Con cũng yêu mẹ.”
Dù trong tâm trí tôi là một người trưởng thành, tôi vẫn đóng vai một đứa trẻ vô tư, bám chặt lấy bà, làm nũng làm nịu.
Hoặc có lẽ tôi chỉ muốn vùi mặt vào lòng bà thêm một chút.
Mùi thuốc lá nhàn nhạt làm nhoe mắt tôi, nhưng tôi không để tâm.
”…Và mẹ xin lỗi.”
Ép mặt vào ngực bà, tôi nghe thấy nhịp tim bà đập nhanh.
Giọng bà không hề run rẩy, ánh mắt vẫn dịu dàng và bình tĩnh, nhưng trái tim bà lại đập thình thịch, như thể chứa đầy lo âu.
“Đáng lẽ con phải có một người cha. Mẹ xin lỗi vì không thể cho con điều đó.”
Tôi có tò mò về cha mình, nhưng chưa bao giờ hỏi.
Hỏi một người phụ nữ bán thân về chồng của bà ấy không còn là sự tò mò nữa, mà là sự tàn nhẫn.
Nếu tôi thực sự là một đứa trẻ bình thường, có lẽ tôi sẽ không có đủ tinh tế để hiểu điều đó.
“Khi trở thành hầu gái cho một tiểu thư, mẹ đã nghĩ rằng mình sẽ có một tương lai tươi sáng. Có thể là kết hôn với cậu trai ngọt ngào ở thôn quê, hoặc một người nông dân chăm chỉ nào đó…”
Bà chợt im lặng, ánh mắt bà gặp tôi, và tia hy vọng trong giọng bà vụt tắt.
Sau đó, bà rơi một giọt nước mắt, ôm tôi thật chặt, và thì thầm vào tai tôi.
“Sau khi bị ruồng bỏ, mẹ đã oán hận con. Mẹ xin lỗi vì điều đó.”
Tôi lắc đầu và ôm bà an ủi khi bà lặng lẽ khóc.
Những tiếng nấc nghẹn ngào của bà cứ kéo dài không dứt.
“Chỉ là… mẹ xin lỗi vì tất cả.”
Dưới ánh trăng rằm, bà trao cho tôi một sợi dây chuyền.
Nó là một món trang sức đơn giản, chỉ có một viên đá nhỏ được cắt thô sơ.
Viên đá lấp lánh yếu ớt, tia sự sống chỉ còn chút ít, bề mặt đã nhẵn mịn vì bị vuốt ve quá nhiều lần.
Tôi nhận lấy nó và mỉm cười rạng rỡ, cảm ơn bà.
Có lẽ, trong thâm tâm, bà thấy bất an khi phải sống cùng một đứa trẻ không hành xử như mọi đứa trẻ khác.
Nhưng bà vẫn luôn yêu tôi và làm tất cả những gì có thể cho tôi.
Tôi chưa bao giờ sống trong một khu dân cư bình thường, nên tôi không biết cuộc sống đó ra sao.
Nhưng dù ở nơi khắc nghiệt này, tôi vẫn có thể học chữ và mơ về một tương lai tươi sáng—tất cả là nhờ bà.
Nói lời “con yêu mẹ” và “cảm ơn mẹ” là điều mà mọi người con cũng nên làm.
Nhưng nếu người đó đã rời xa, bạn sẽ không thể nói những lời ấy nữa.
Có lẽ họ sẽ nghe thấy từ thiên đường, nhưng tôi chẳng thể biết chắc được.
Khoảng một năm sau chuyến đi chơi bên hồ, sức khoẻ mẹ tôi bắt đầu yếu đi.
Dù sức khỏe suy giảm, bà vẫn không ngừng làm việc, và cơ thể bà ngày càng tiều tụy.
Và rồi, bà qua đời.
Dù từng là người được trọng vọng, thi thể bà cũng chẳng nhận được đối xử tốt hơn những kỹ nữ khác—nó bị đưa đến lò thiêu phía sau nhà thổ.
Thứ duy nhất được trả lại cho tôi là một chiếc bình sứ nhỏ mà mẹ đã từng mua bằng chính tiền của mình.
Cái bình vẫn còn ấm.
Bên trong thậm chí còn sót lại một chút tro cốt của bà, có nghĩa là số tiền ấy không hoàn toàn bị lãng phí.
Hầu hết những người phụ nữ khác đều bị hoả thiêu đến độ không để lại dù chỉ một dấu vết.
Đó là những suy nghĩ lướt qua trong đầu tôi.
Có lẽ tôi nghĩ như vậy để không phải rơi lệ.
Hoặc có lẽ tôi chỉ không muốn thừa nhận sự thật.
Sự thật rằng bà đã thực sự rời xa tôi.
Mãi đến vài ngày sau, sau khi nhận chiếc bình, tôi mới bật khóc.
Tôi vùi mặt vào đầu gối, lặng lẽ nức nở, cố gắng để tiếng khóc không làm phiền hà đến người khác hết mức có thể.
Tôi tự nhủ rằng nếu ai đó nghe thấy, họ có thể sẽ nhầm tưởng đó là tiếng ai đó đang cố nhịn cười.
Tôi chôn chiếc bình dưới gốc cây lớn gần hồ.
Dùng đôi bàn tay nhỏ bé của mình, tôi đào một cái hố và đặt lên trên một viên đá thô sơ có khắc tên bà.
Khi tôi hoàn thành, màn đêm đã buông xuống, và trên bầu trời, hai vầng trăng sáng tỏ.
Cảnh tượng ấy khiến tôi có một cảm giác kỳ lạ, như thể tôi đã từng nhìn thấy nó ở đâu đó trước đây.
Ở thế giới này, nơi có hai vầng trăng, tôi bỗng thấy thèm một tách Yirgacheffe—một thứ viễn vông không tồn tại ở nơi này.


1 Bình luận