-25:48:06
Lúc tờ mờ sáng Waver Velvet mới về được đến nhà MacKenzie ở Miyama.
Đêm qua cậu đã đi bộ mấy giờ liền. Cậu đã tưởng như không cách nào trở lại thị trấn nếu không bắt gặp một chiếc xe taxi trên đường. Thật may là lại có một chiếc taxi trống chỗ còn chạy qua nơi vắng vẻ thế này, có điều cậu không biết nên vui mừng hay giận dữ nữa. Giá như vận may đến với Rider và Waver ngay lúc họ đang trong thời khắc giao đấu ác liệt thì tốt biết mấy. Giờ cậu chỉ thấy nản hơn vì cái may mắn này đến chẳng đúng lúc tý nào.
Waver buông tiếng thở dài khi bước ra khỏi xe taxi, cuộc dạ hành rồi cũng kết thúc. Bỗng nhiên, cậu nghe thấy tiếng ai đó gọi mình.
“– Này, Waver. Lại đây, lại đây nào.”
Tiếng nói phát ra từ phía trên đầu cậu. Cậu ngước lên, bắt gặp ông cụ Glen - ông chủ nhà - vẫn còn thức giấc, đang ngồi trên cửa sổ gác mái và vẫy tay với Waver, lúc này đang đứng ở cửa.
“Ông hả? Ông… Ông đang làm gì vậy?”
“Được rồi, được rồi. Lên đây đi nào. Ông có chuyện muốn nói với cháu.”
“Có chuyện muốn nói với cháu á? Thế... Mà sao ông lại ngồi trên mái nhà?”
“Không nơi đâu có tầm nhìn tốt hơn chỗ này. Ở đây quá tuyệt để tắm nắng ban mai.”
Cái sở thích kì lạ của ông khiến người ta tự hỏi có phải nó sinh ra do tuổi già không. Thực lòng mà nói, Waver chẳng hơi đâu đi chọc quê ông cụ nữa. Cậu mệt nhoài sau chặng đường dài lê bước về đây trong đêm lạnh lẽo; bây giờ cậu chỉ muốn lăn ra giường thật lẹ, để cho cái thân xác rũ rượi này được nghỉ ngơi.
“Ông ơi… chờ đến khi trời sáng được không ạ?”
“Đừng nói thế chứ.” - Ông cụ Glen nói giọng điềm đạm, nhưng ý tứ rất cương quyết.
“Tốt hơn là cậu nên lên đó đi, nhóc à. Ông cụ hình như thật sự có chuyện cần nói.”
Tiếng nói ồm ồm phát ra bên vai Waver mà chỉ có mình cậu nghe thấy. Rider đã chịu hứa sẽ tranh thủ hồi phục prana trong trạng thái linh hồn trên đường về nhà sau cuộc chạm trán với Saber.
“Ta sẽ quan sát xung quanh. Đừng lo gì cả.”
“Vấn đề không phải ở chỗ tôi lo…” – Waver định cằn nhằn nhưng rồi lại lập tức nín thinh. Ông cụ Glen không thể nhìn thấy Servant ở dạng linh hồn nên nếu Waver nói chuyện thì sẽ trông như tên lẩn thẩn đi nói chuyện một mình.
“Chẳng ai thèm quan tâm xem mình nghĩ gì…”
Cuộc Chiến Chén Thánh lần này đang gần đến hồi kết rồi nên Waver mới tiếp tục gắng gượng làm bộ vâng lời lão già vô dụng này. Chính vì thế mà cậu cảm thấy rất bực bội. Nhưng mà gây chuyện với lão thì chỉ tổ mất thời gian thôi. Dù không muốn nhưng cậu cũng chẳng biết nói sao nếu lão hỏi cậu đi đâu mà đến gần sáng mới về. Rút cuộc là cậu đành phải trèo lên mái hiên tới chỗ ông cụ.
Ngôi nhà của MacKenzie khác với các ngôi nhà khác quanh vùng ở một điều: có một cửa sổ gác mái nằm ngay giữa một mặt của mái nhà. Nếu muốn leo lên mái nhà thì chỉ cần trèo qua cửa sổ gác mái, dùng cái thang nối từ gác mái đến cầu thang tầng ba. Lối đi này không phải do ngẫu nhiên mà có. Nó được sử dụng để tiện lợi trong quá trình xây cất ngôi nhà. Ai biết được lối phụ này thì có thể leo lên mái nhà rất dễ dàng.
Leo lên không khó, nhưng cái khổ là khí lạnh vì trời chưa sáng hẳn. Waver vừa mới trèo qua cửa sổ đã thấy rùng mình vì gió bắc. Ở trên đây thì chẳng có gì cản gió cả, nên lạnh hơn hẳn so với lúc ở dưới mặt đất.
“Ngồi đi. Đây, ông pha cà phê rồi. Uống vào sẽ thấy ấm lên thôi.” - Cụ Glen vừa nói thật to, vừa rót cà phê từ bình giữ nhiệt vào cốc. Ông cụ mặc một chiếc áo khoác dài và đeo khăn len quàng cổ. Có vẻ như ông cụ đã mặc sẵn quần áo ấm trước đó. Waver không thể đoán ra tại sao ông cụ làm vậy.
“Ông ơi… ông đã ngồi đây bao lâu rồi?”
“Ông thức dậy lúc trời còn tờ mờ sáng, và thấy rằng cháu vẫn chưa về nhà. Mấy lại thì, ta có thể thấy được các chòm sao vào khoảng thời gian này trong năm. Vậy nên ta ở đây vừa ngắm sao vừa chờ cháu ta quay về…”
Waver không đáp lại mấy câu vẩn vơ mụ mị của ông già mà chỉ hững hờ nhấm nháp tách cà phê của mình. Cụ Glen muốn dậy sớm hơn mọi khi chỉ để ngắm sao như một thú an hưởng tuổi già ư?
“Sao thế Waver? Chẳng phải hồi bé cháu rất thích chỗ này ư? Hai ông cháu ta đã cùng ngắm sao rất nhiều lần. Cháu còn nhớ chứ?”
“Mm… hình như vậy.”
Waver nhìn chăm chăm dưới đất, làm như thể cậu đã quên sạch những hồi ức mà cậu chưa từng có.
Toàn bộ thành phố Fuyuki, tính từ Miyama đến vùng biển, đều có thể bao quát trong tầm mắt vì nhờ ngôi nhà này nằm trên sườn đồi. Không khí trong lành và ấm dần lên khi ánh bình minh nhuộm mặt biển một màu hồng lấp lánh ngọc trai, và cậu có thể thấy được vài cái bóng của cánh buồm phía đằng xa.
“Thế nào? Quang cảnh này đẹp đúng không?"
“…”
Waver chỉ thấy đây là quang cảnh chiến trường. Cậu đâu còn lòng dạ nào mà thư giãn tận hưởng cảnh đẹp nữa.
“Lần đầu tiên khi ông đặt chân lên mảnh đất này là trong chuyến công tác… Martha yêu cầu ông hai chuyện khi ông bàn với bà ấy về việc chọn Fuyuki làm nơi an nghỉ cuối cùng của cả hai. Thứ nhất là xây một ngôi nhà trên đồi ở Miyama, thứ hai là phải có một căn gác mái để hai người cùng lên đó… Với cả là, thằng Chris không muốn rời xa Toronto. Chẳng qua nó không muốn bị đổi thành người Nhật thôi.”
Cụ Glen mơ màng nhìn đăm đăm hướng về bờ bên kia đại dương, nơi quê hương của ông và cũng là nơi con ông qua đời.
“… Ông thích Nhật Bản đến vậy ư?”
“Nói vậy cũng đúng. Nhưng giá như đó là lý do cuối cùng khiến ông cãi nhau với con trai và không bao giờ gặp nó nữa… bây giờ ông thật sự hối hận…” – Ông cụ buông tiếng thở dài như gợi lại những năm tháng cô đơn. “Ông luôn ước ao được ngồi đây ngắm sao cùng với con cháu như thế này, dẫu rằng điều ông mong mỏi chẳng bao giờ thành hiện thực."
“– Hử?”
Một câu nói bất thường sau một hồi kể lể, còn kèm theo một nụ cười cay đắng nữa. Nó làm Waver điếng người.
Như thể đang giễu cợt cậu, ông cụ Glen khẽ gật đầu và nói:
“Đứa cháu thực sự của ta chẳng bao giờ cùng lên gác mái ngồi với ta. Martha cũng sợ độ cao. Chỉ một mình ta lên đây thôi…”
Điều vừa làm tổn thương Waver hơn cả sự lúng túng và rối trí chính là cảm giác xấu hổ.
“Nói đi Waver, cháu không phải cháu trai của ta phải không?”
Bùa lú đã mất linh nghiệm – không phải, nó đã bị hóa giải bởi một ông cụ hiền lành không biết tí gì về phép thuật.
“Cháu –”
“Hmm, vậy cháu là ai? Cơ mà chẳng quan trọng. Thật đáng ngạc nhiên là Martha và ta thật sự tin cháu là cháu trai của hai chúng ta. Nhưng không ngờ rằng dù sống đến tuổi này rồi, ta lại phát hiện ra những điều phi thường trong cái thế giới còn tiềm ẩn những điều phi thường vượt xa hơn cả trí tưởng tượng của con người… Dù sao thì, lối cư xử của cháu cũng hiền hòa hơn cháu trai ta nhiều.”
“… Ông không giận ư?” - Waver hỏi nhỏ.
Cụ Glen đáp với vẻ ôn hòa xen lẫn phức tạp:
“Chuyện này đương nhiên là ta phải giận rồi. Tuy nhiên, Martha bây giờ lúc nào cũng tràn trề hạnh phúc; đã lâu rồi không được như thế. Ta nên cảm ơn cháu về điều đó."
“…”
“Hơn nữa, có vẻ như cháu không đến đây với dụng ý xấu. Những thanh niên chính trực như cháu và anh bạn Alex rất hiếm thấy. Còn về nguyên nhân tại sao cháu dối gạt bọn ta… Ta không cách nào đoán ra được.”
Waver thấy rằng ông già này chẳng biết đề phòng gì cả, mà lại còn chậm tiêu nữa. Ngay cả mấy con chuột thí nghiệm ở Tháp Đồng Hồ còn lanh trí hơn ông ta.
Sao ông không giận mình? Sao ông không trách móc mình? Đối với một kẻ chỉ biết mỗi thế giới nhỏ bé của Hội Pháp Sư như Waver, lòng bao dung của ông lão là điều cậu không thể lý giải nổi.
“Hoặc là có thể ta nên bảo cháu ở lại chỉ bởi vì ta chưa biết gì về cháu cả… Nếu được thế thì biết đâu chúng ta có thể giữ tình cảm này lâu hơn chút nữa. Theo ta thấy thì Martha không cảm thấy gì bất bình thường hết. Dù chỉ là mơ cũng được. Khoảng thời gian được ở bên đứa cháu yêu quý là một kho tàng quý giá của vợ chồng ta.”
Waver chẳng dám ngước nhìn ông già. Cậu cúi đầu, mải mê ngắm nghía tay mình. Đôi bàn tay này mai sau sẽ làm nên phép màu vĩ đại. Cậu có thể làm được – dù người ta có bĩm môi thì cậu vẫn tin tưởng vào chính mình.
Nhưng thực tế nói lên điều gì?
Cậu thậm chí không làm tốt được phép thôi miên, phép thuật căn bản nhất trong những phép thuật cơ bản. Đây không phải là may rủi. Lý do may rủi chỉ là ngụy biện. Phép thuật của cậu không làm nên trò trống gì, để đến nỗi một ông già cầu xin cậu lừa dối họ lâu hơn chút nữa chứ. Người như cậu mà lại có thể chiến thắng, có thể hãnh diện cầm cúp vàng trong tay ư?
Phép thuật của Waver Velvet này không những chẳng ra gì mà ngược lại còn khiến người khác thương hại. Cảm xúc trái ngang chồng lên niềm tiếc nuối – phải, cậu chỉ là một thằng hề.
Ngước nhìn lên khoảng trời trống trải, Waver quên đi mọi thứ xung quanh và chìm vào ưu tư. Giờ thì cậu đã hiểu hết cách nhìn nhận của những kẻ từng cười nhạo cậu ở Tháp Đồng Hồ. Waver cũng đang cùng cười nhạo sự ngu ngốc của chính mình chung với họ.
Dù nghĩ thế nhưng cậu lại không cười được. Ông bà Glen and Martha MacKenzie không coi đó là trò cười. Họ chân thành cầu xin Waver theo cách của riêng họ. Cậu vừa nhận ra rằng những lời nói kia không phải là châm chọc, chưa bao giờ cậu cảm thấy như thế.
“… Thứ lỗi cho cháu không dám hứa với ông điều đó. Cháu thậm chí còn không dám hứa lần sau có thể quay về đây an toàn.”
“Vậy cháu và Alex đang làm điều gì đó nguy hiểm đến tính mạng ư?"
“Phải."
Noble Phantasm của Saber như tia chớp lạnh buốt hiện ra trong mắt cậu. Chỉ mới nửa ngày trước thôi nhưng Waver không quên được cảm giác rơi vào vực sâu chết chóc ấy, đã từng và sẽ còn diễn ra tiếp đó.
Ông cụ Glen im lặng nghĩ ngợi một hồi, rồi ông gật đầu đáp:
“Ta không biết việc đó quan trọng với cháu thế nào… nhưng ta hy vọng cháu chịu nghe lời khuyên của ông già này. Rằng đến khi đã đi gần hết quãng đời của mình, cháu nhận ra rằng chẳng có gì quan trọng hơn sinh mệnh.”
Lập luận này đi ngược lại với lý tưởng sống mà Waver đánh đổi cả tuổi thơ của mình để thực hiện. Cái gọi là con đường học pháp thuật chỉ thực sự bắt đầu khi học viên chấp nhận dấn thân vào cửa tử – cảnh giới cuối cùng chỉ có thể đạt được bằng cả cuộc đời phấn đấu. Đấy cũng là con đường lý tưởng mà cậu đã bỏ rất nhiều tâm huyết theo đuổi từ trước đến giờ.
Biết đâu nếu ai đó tìm được cách sống khác phù hợp hơn thì có thể minh chứng lời khuyên của ông cụ.
Waver ngắm bình minh đang lên, trong lòng cảm giác mất mát không thể diễn tả được. Chí ít thì cậu biết mình đang bước vào ngày cuối cùng của Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ tư.
-17:21:41
Mọi người vẫn nhớ thành phố Fuyuki ngày hôm đó trong điều kiện thời tiết bất thường. Thật không thể tin nổi, gió bắc thường nhật đột nhiên ngừng thổi, thay vào đó là cái ánh nắng gắt như đang giữa mùa hè làm bầu không khí bị ngưng trệ, khiến cho đám sương trái mùa tản ra khắp nơi. Nhiệt độ và độ ẩm tăng cao – điều mà các nhà dự báo thời tiết không thể giải thích được – chỉ xảy ra ở cục diện ở trung tâm thành phố Fuyuki, làm dấy lên những lời đồn nhảm trong cộng đồng dân cư liên đới đến những điều bất thường xảy ra gần đây.
Một loạt các sự cố xảy ra liên tiếp trong thành phố; những tên sát nhân quái đản; nhiều vụ trẻ con mất tích - không tìm thấy bất cứ dấu vết nào nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Lệnh giới nghiêm chẳng thay đổi được gì mà thậm chí còn tệ hơn, lại có thêm sự cố nhà máy xử lý chất thải bên sông Mion xảy ra ngày hôm kia. Một chuỗi các biến cố ấy tác động mạnh đến những người yếu bóng vía, khiến họ cảm thấy thời tiết này cảnh báo nhiều tai họa khác sẽ ập đến.
[] X X
Kiritsugu ngồi ưu tư dưới bóng cây, quan sát độ nghiêng của cái bóng thay đổi theo ánh mặt trời. Suốt 40 tiếng đồng hồ không chợp mắt, ông luôn cảm thấy căng thẳng không dứt. Trong tình thế nguy hiểm thế này, ông vẫn cố giành thời gian nghỉ ngơi hồi phục sức khỏe để đối phó những tình huống gay cấn - đây là kinh nghiệm chiến đấu dài ngày ở ngoài trận địa. Nghỉ ngơi nhưng vẫn cảnh giác xung quanh, để khi ai đó đến gần thì ông sẽ tỉnh dậy ngay tức thì. Trong khi ý thức hoạt động thì các cơ toàn thân được thư giãn để đồng thời đối phó với sự mệt mỏi của mình.
Tuy nhiên, hiện tại Kiritsugu không để tâm mấy đến việc đề cao cảnh giác. Trạng thái giải tỏa mọi cảm xúc để duy trì thể trạng tối ưu là một trong các “cơ chế” của ông. Hơn thế nữa, khi ở trạng thái vận động, ông còn có thể vượt qua giới hạn của bản thân để gia tốc chính cơ thể mình – đó là một “cơ chế” khác. Điều giúp ông thay đổi trạng thái hoạt động của cơ thể ông không gì khác ngoài cảm nhận về “sự kháng cự” dưới lớp da này.
Bây giờ, Kiritsugu suy tính ở phần bờ hồ phía sau đền Ryūdō, là ngôi đền nằm bên sườn núi Enzō, ở phía đông thị trấn Miyama thuộc thành phố Fuyuki. Sau khi nhận được tin về cái chết của Tokiomi và sự trở lại của Kotomine Kirei tại dinh thự nhà Tohsaka tối hôm qua, Kiritsugu đã lập tức xông thẳng vào nhà thờ Shinto, trụ sở chính của hắn nhưng nơi này trống trơn. Dấu vết còn lại cho thấy có người vừa ở đó khoảng một giờ trước, tức là ông đã đến chậm mất rồi. Nguyên do khiến ông chậm chân là vì cuộc đột nhập vào dinh thự nhà Matou và dinh thự nhà Tohsaka tốn nhiều thời gian.
Như vậy, Kiritsugu đã gạt chuyện tìm kiếm Irisviel sang một bên. Lý do là vì ông cho rằng nếu tiếp tục truy tìm cô chẳng khác nào lún sâu vào cạm bẫy của đối thủ. Nếu ông muốn giành cơ hội chiến thắng, thì ông chỉ có một lựa chọn duy nhất là chiến đấu, không phải như một người chồng đi tìm vợ mà như một Master truy cầu Chén Thánh.
Vì không còn giữ “Vật Chứa Chén Thánh” – quân át chủ bài của nhà Einzberns – Kiritsugu tiếp tục Cuộc Chiến Chén Thánh không khác gì những Master ngoài vòng (không thuộc Tam Gia Khởi Thủy). Chiến thuật đánh lạc hướng đối phương để tìm ra kẽ hở trong tấn công và phòng thủ của đối phương đã không còn tác dụng nữa. Ông phải tận dụng cơ hội phục kích các đối thủ đáng gờm nhất đối với mình. Theo đó, chiến lược khả thi là bất ngờ tấn công trực diện. Kể từ thời điểm này, để củng cố lại tình thế, ông phải suy tính toàn bộ đường đi nước bước trong giai đoạn cuối cùng này, và lập ra những cạm bẫy tương ứng.
Nhìn từ bên ngoài thì Cuộc Chiến Chén Thánh mang vẻ huy hoàng, nhưng bên trong khi nó bắt đầu lộ ra là nó giống như cuộc đánh chiếm lãnh địa giữa các phe. Mục tiêu cuối cùng là để hoàn thành nghi thức triệu hồi Chén Thánh; nhưng để đảm bảo địa điểm làm lễ tế thích hợp cũng là nhiệm vụ bắt buộc của người chiến thắng.
Ở Fuyuki, chỉ có bốn địa điểm có sức chứa năng lượng tâm linh phù hợp để triệu hồi Chén Thánh.
Địa điểm tốt nhất là núi Enzō, nơi có hang động thiên nhiên tên là “Hang Rồng”. Đây là nơi “Đại Chén Thánh” được Justicia[1] phát hiện ra. Đây là bàn tế bí mật của riêng Tam Gia Khởi Thủy, và được họ ưa dùng kể từ khi nó được hình thành cách đây 180 năm.
Gia tộc Tohsaka – chủ của khu đất – có quyền sử dụng nơi giao mạch tâm linh tốt nhất để làm căn cứ. Tuy nhiên, lượng prana lưu chuyển ở vùng núi Enzō quá mạnh, và quá nguy hiểm để làm nơi sinh trưởng cho thế hệ pháp sư mai sau. Do vậy, họ xây dựng cơ ngơi tại nơi giao mạch tâm linh tốt thứ hai - cũng là dinh thự nhà Tohsaka ngày nay. Dù không bằng Đại Chén Thánh nhưng vẫn đủ năng lực tâm linh để triệu hồi Chén Thánh.
Gia tộc Makiri nhận được một mảnh đất khi họ chuyển đến đây. Nhưng vì họ thấy rằng linh khí của mảnh đất không phù hợp với nguyên tố phép thuật của gia tộc, nên họ chuyển cứ điểm đến một nơi khác mà sau này trở thành dinh thự nhà Matou.
Nơi giao mạch tâm linh nguyên thủy được bảo vệ bởi Hội Nhà Thờ - thế lực can dự về sau đó. Hiện nay, vị trí của nó nằm trên đỉnh đồi, nơi tọa lạc của nhà thờ Fuyuki, được xem như nơi giao mạch tâm linh thứ ba. Nơi ấy cách xa núi Enzō và bên bờ sông ngoại ô Shinto, hơn nữa lại không mạnh bằng mảnh đất tâm linh thứ hai.
Nơi giao mạch tâm linh thứ tư vốn dĩ không tồn tại, vì dòng chảy tâm linh của ba điểm giao mạch tâm linh kia khiến cho dòng mana xảo hợp mà đọng lại; kết quả là tích tụ sau 100 năm có lẻ, khu vực trung tâm này đạt được mức năng lượng đáng kể. Nó có thể xem như mảnh đất tâm linh hậu sinh. Kết quả của các cuộc thẩm định đã xác nhận mảnh đất tâm linh này hội đủ điều kiện để thực hiện nghi lễ; và trong Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ ba, nó được đánh dấu cùng với các địa điểm kia. Ngày nay, khu vực này phát triển thành khu dân cư của Shinto. Tuy nhiên, ở đây có một vướng mắc, hội trường trụ sở hội đồng thành phố vừa được xây ngay tại đó.
Cho dù Kotomine Kirei có giữ “Vật Chứa Chén Thánh” thì y vẫn bắt buộc phải thực hiện lễ tế ở một trong bốn mảnh đất tâm linh nói trên. Nếu Kiritsugu đến những nơi đó để đặt bẫy phục kích y, thì ông sẽ có nhiều cơ may lật ngược thế cờ.
Nhà thờ Fuyuki bỏ không nên Kiritsugu loại trừ khả năng y chọn hai địa điểm là dinh thự nhà Tohsaka và nhà thờ Fuyuki – nơi giao mạch tâm linh mạnh thứ hai và thứ ba. Để phòng hờ và giành thế chủ động, lúc trước khi trời sáng thì Kiritsugu đã cài thuốc nổ ở hai nơi ấy để làm bẫy. Và đến tầm trưa, ông gài bẫy ở địa điểm tiếp theo là đền Ryūdō, rồi theo dõi cả ngày.
Kiritsugu cho rằng rất có khả năng Kirei sẽ chọn núi Enzō làm nơi tế lễ. Y đã biến mất tăm hơi khỏi nhà thờ Fuyuki. Theo lẽ thường thì y nhất định là muốn trốn tránh hiệp hội, nhưng có thể chuyện y bỏ lại nơi giao mạch tâm linh an toàn sẵn có là vì y muốn chọn nơi lễ tế ở cùng đất tâm linh mạnh nhất – Kiritsugu đoán thế. Cũng theo suy luận theo đó, sau khi giết Tokiomi Tohsaka, dinh thự ấy coi như về tay Kirei. Nhưng y cũng bỏ nó lại, vậy thì chỉ còn lại Đại Chén Thánh ở núi Enzō.
Thực ra cũng không ngoài khả năng hành động của Kirei chỉ nhằm tung hỏa mù đối với Kiritsugu, y vẫn có thể quay lại nhà thờ Fuyuki hoặc dinh thự nhà Tohsaka. Cho nên để chắc chắn, Kiritsugu đã đặt thật nhiều bẫy để chỉ cần khi Kirei bước chân vào hai nơi đó, y sẽ không có cơ may sống sót trở về. Nếu y tan tành xác pháo còn “Vật Chứa Chén Thánh” không bị hư hại gì thì chiến thắng sẽ nhanh chóng về tay ông. Còn về tính mệnh của Irisviel, Kiritsugu vốn đã xem như mất mát không thể tránh khỏi.
Để tăng thêm khả năng thắng Kirei, ông đương nhiên là không bỏ qua trụ sở hội đồng thành phố Fuyuki - nơi giao mạch pháp thuật thứ tư. Ở đó, Kiritsugu đã bố trí familiar canh gác.
Từ khi được xác nhận là khu đất tâm linh, “mặt bằng” vẫn để nguyên không có kết giới pháp thuật nào. Không như ba địa điểm kia đều thuộc loại “thủ dễ công khó”, phòng họp hội đồng không có vị trí thuận lợi nào cho cuộc đấu phép. Giả sử nếu Kotomine Kirei xuất hiện ở phòng hội đồng thành phố thì Kiritsugu sẽ phải tấn công chính diện. Đó là tính huống tệ nhất nhưng nguy cơ xảy ra cũng thấp nhất. Chỉ cần ông hành động theo trình tự, bất kể là đúng hay sai, địa điểm mà ông phải khống chế được bằng mọi giá chính là núi Enzō.
Nếu Maiya không xảy ra chuyện thì cô ta có thể canh phòng ở trụ sở hội đồng thành phố và chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống giao đấu với Kirei. Nhưng lúc này có than thở cũng vô ích. Hiện tại ông chỉ có thể tự lực tự cường.
Kiritsugu đột nhiên nhớ lại thời gian sau khi ông để mất Natalia. Ông nhận thấy hành động một mình không hợp tác với ai lại chẳng khác trước bao nhiêu. Thật không ngờ, chẳng lẽ vì Kiritsugu luôn là kẻ sống sót cuối cùng sao?
Kiritsugu suy tư, cảm thấy cuộc đời ông chưa thể tách ra khỏi hai chữ “đơn độc”. Cũng có thể nói cuộc sống ấy còn tồi tệ hơn cả đơn độc. Luôn luôn có một người bên cạnh Kiritsugu. Một người đứng ngoài chứng kiến những cảnh giết chóc hay gián tiếp gây ra cái chết cho “họ”, chính là Kiritsugu.
Cả Maiya và Irisviel đều là những người tiếp sức cho ông trên con đường định mệnh. Ắt hẳn vì thế nên bây giờ ông phải một mình bước vào trận chiến cuối cùng. Kẻ khởi đầu và cũng là kết thúc con đường này – đây hẳn phải là định mệnh của Emiya Kiritsugu. Một kẻ đã khiến bao người thân yêu phải hy sinh cho ông thật không đáng được tha thứ.
– Có giao động từ phía cổng đền cho thấy có gì đó đang đến gần. Kiritsugu cắt ngang dòng tư tưởng, nắm chặt khẩu Calico trong tay, cẩn trọng kiểm tra xung quanh. Tuy nhiên, sự cảnh giác của ông thực sự không cần thiết. Kiritsugu đã nhận ra sóng prana của người vừa hiện diện.
Đúng ra thì còn có một người – quân lực mạnh nhất của Kiritsugu - vẫn chưa thực sự hợp tác với ông. Bất chấp định kiến của bản thân, Kitsugu thực sự không thể không lấy làm ngạc nhiện và cười thầm. Cô ta vẫn còn đây. Dù khó mà dám chắc rằng vị hiệp sĩ danh tiếng – cô không còn nằm trong kế hoạch của Kiritsugu - sẽ hợp tác với ông, dù cô ta vẫn là đồng đội trên danh nghĩa.
Dù có Master có ẩn nấp ở đâu thì cũng không che mắt được Servant của mình. Saber không vô tình đến đây, cô đi một mạch thẳng đến cái cây mà Kiritsugu đang nấp, và dừng lại ở khoảng cách đủ gần để hai người nói chuyện, nhưng cũng đủ xa để họ không thấy được cảm xúc của nhau – theo kiểu tế nhị. Khoảng cách ấy không những để họ không thể trao đổi những lời lẽ thân mật mà còn là khoảng cách giữa trái tim của Master và của Servant.
Diện mạo ấy vẫn anh tú như thế, nhưng không che dấu được sự mệt mỏi trên gương mặt cô. Là một Heroic Spirit, mệt mỏi thể chất không đáng là gì; nhưng mệt mỏi vì tâm trạng lo lắng khôn nguôi thì là chuyện khác. Thần uy trong mắt cô nhạt dần đi sau mỗi phút giây trông ngóng thân ảnh Irisviel.
“– Từ đêm hôm qua, tôi đã lùng tìm Irisviel ở tất cả mọi nẻo đường. Nhưng, vẫn chưa có dấu vết gì… Tôi thành thật xin lỗi.”
Một Servant bị ông quên lãng và bị bỏ rơi; Kiritsugu không quan tâm chuyện cô ta lãng phí bao nhiêu thời gian đêm hôm qua; và khi nghe được cô vừa làm chuyện vô ích đúng như ông đã nghĩ, ông thậm chí không thèm đáp lại.
Đến giờ, mối quan tâm của Saber vẫn là “giải cứu Irisviel”.
Từ nửa đêm hôm qua đến sáng hôm nay, trong lúc Kiritsugu ra sức đặt thuốc nổ để bẫy Kotomine Kirei thì Servant của ông lại mù mờ chạy lòng vòng trong thành phố tìm Irisviel mà chẳng có manh mối nào về nơi giam giữ cô ấy.
Đây mà là sức mạnh ý chí của một hiệp sĩ ư? Sự tận trung ngờ nghệch dành cho người mà cô ta từng thề thốt đây ư?... Cô ta toàn làm những chuyện ngốc nghếch không có tính chiến lược gì cả. Nhưng đây đồng thời cũng là chỉ trích chua chát dành cho Kiritsugu vì đã mặc kệ sự sống chết của vợ mình mà thực hiện kế hoạch khác.
Phải thừa nhận rằng cô cất công đến đây không phải để trách móc ông. Saber chỉ tiện dừng chân ở đền Ryūdō trong khi tìm kiếm Irisviel vì nhận thấy có sự hiện diện của Master. Nhưng vì phải đối diện với cô lần thứ hai khi đã một lần tranh cãi về tôn chỉ và cách thức hành động của nhau, ông không thể không nhớ lại những mâu thuẫn giữa hai người.
Từ dưới bóng cây, cái nhìn lạnh lùng của Kiritsugu, cảm giác khô khốc trong lòng cô lại nổi lên – có lẽ cho đến khi kết thúc cuộc chiến, cô không còn dịp nào để nói chuyện nghiêm túc với Master của mình nữa.
“……Vậy thì, tôi sẽ tiếp tục tìm Irisviel. Nếu cần gì thì hãy triệu tập tôi bằng Phong Ấn Mệnh Lệnh như lần trước.”
Nói xong, Saber rời khỏi ngôi đền, cứ thế ra đi mà không được nghe tiếng gọi quay lại hay những lời dặn dò nào.
Để nhanh chóng lấy được Chén Thánh thì kế hoạch của Kiritsugu là thích hợp nhất – bản thân Saber cũng hiểu điều này. Vì vậy, cô cũng đắn đo mà giao lại nơi này cho ông. Cô không lo lắng việc để Kiritsugu một mình. Trong tình thế bắt buộc cần Servant hỗ trợ, năng lượng từ Phong Ấn Mệnh Lệnh sẽ dịch chuyển đến bên cạnh ông tức thì – cô đã được trải nghiệm điều này tối hôm qua.
Bước trên các bậc thang bằng đá dẫn từ cửa đền xuống dưới chân núi, Saber nhíu mắt vì nắng chói.
Những kẻ địch cần giết thì chưa tìm được, người mà cô cần bảo vệ cũng chưa tìm được… trực giác mách bảo cô không được phép lãng phí thêm một phút nào nữa. Dù chẳng biết đi đâu nhưng trong lòng cô có cảm giác nóng vội và dần mất kiên nhẫn.
-16:05:37
Nắng nóng gay gắt, thời tiết trái mùa chẳng liên quan gì đến Kotomine Kirei. Bầu không khí ẩm ướt lạnh giá khiến nơi đây trở nên ảm đạm như bị chậm lại so với guồng quay của thế giới bên ngoài. Hiện tại anh đang ở một nơi rất kín đáo và thuận tiện, anh chỉ cần đợi đến lúc trời tối mới bắt đầu hành động.
Nơi trú ẩn tạm thời của Kotomine Kirei sau khi rời khỏi nhà thờ Fuyuki lại chính là đường hầm được sơn phủ bởi máu khô, vốn là hang ổ của Uryū Ryunosuke và Servant Caster lúc trước – cống thoát nước trong hệ thống đường ống xả nước thải của cả thành phố Fuyuki. Hơn nữa, đây cũng là nơi mà Assassins của anh đã bị vũ nhục. Mỉa mai thay, chính vì để bụng chuyện đó đã nên anh mới chọn nơi này.
Điều đáng tin về nơi đây chính là vì Caster, kẻ trở thành mục tiêu của tất cả các Master theo lệnh của Risei mà vẫn sống nhăn ở đây sau cuộc hỗn chiến tại khu rừng Einsbern. Rider và Master của hắn là phe duy nhất tìm ra, nhưng khi đến đây rồi thì bọn họ cũng chẳng còn quan tâm đến xưởng phép của Caster nữa.
Sau khi kiểm tra an toàn xung quanh, Kirei bắt đầu xem xét tình hình chiến sự.
Đầu tiên là loại bỏ Tōsaka Tokiomi, bắt tay với Matō Kariya, giam giữ Vật chứa Chén Thánh, và anh còn khiến cho Saber và Rider ở thế bị động vì không ai biết được anh đang ở nơi nào – Tất cả đều thành công chỉ trong một ngày ngay sau khi anh quyết định quay lại Heaven’s Feel. May mắn chẳng thể cầu mong, vạn vật không thể hoàn hảo. Ngay chính Kirei cũng ngạc nhiên rằng tự anh có thể nhanh chóng thay đổi thế hạ phong của mình.
Kirei đoạt lấy những lợi thế mà Tōsaka Tokiomi có từ đầu cuộc chiến. Archer khi ở trạng thái sinh thể thì có thể xem như là Servant mạnh nhất Heaven’s Feel này, giờ y đã thuộc về Kirei. Berserker là khắc tinh đối với Archer, hiện tại cũng thành con rối của Kirei chung với Master của hắn. Chẳng còn mối đe dọa nào đối với Kotomine Kirei này nữa.
Chẳng cần quan tâm giữa Saber và Rider ai sẽ thắng. Đằng nào thì kẻ thắng cũng bị hạ bởi Noble Phantasm cực mạnh của Archer. Nếu chẳng may Vua Hiệp Sĩ và Vua Chinh Phạt sống sót hay thậm chí còn hợp tác với nhau chống lại anh, thì vẫn còn có Berserker thiện chiến chặn chúng lại. Tuy Matō Kariya hầu như tàn tạ sau chuyện xảy ra với Aoi, Berserker vẫn sẽ tự động tấn công Saber mà không cần Master ra lệnh.
Kirei cho rằng tốt hơn hết là nên chuẩn bị vài ba kế sách phòng khi trận đấu với Rider không được suông sẻ, nhưng Archer lại gạt đi. Trận đấu ấy không phải của Kirei, mà là của Vua Anh Hùng. Kirei thấy cần tôn trọng chiến ý của y. Đây có lẽ là khác biệt lớn nhất giữa Kirei và những pháp sư coi Servant như công cụ. Anh không muốn sử dụng Phong Ấn Mệnh Lệnh lên Archer. Nếu ép buộc một người cực kỳ kiêu ngạo đi ngược ý muốn của y thì chỉ phản tác dụng mà thôi. Tốt hơn là không nên coi Servant như con cờ mà phải tùy cơ ứng biến tác động y. Ví như thời tiết hay hướng gió, thủy thủ không thể điều khiển được gió nhưng có thể đèo lái cánh buồm theo hướng có lợi. Đó là điều anh nghĩ.
Archer đã ra ngoài đi dạo, cậu ta không thích nhốt mình trong cái hầm ngầm bí bức này. Kirei biết Archer sẽ lập tức trở về khi cần nên anh không lấy làm phiền lòng. Dù gì anh cũng không coi Vua của Anh Hùng như một familiar, mà là kẻ đồng phạm cùng chung lợi ích.
Lại nói, Kirei thấy có nhiều phương pháp sử dụng bộ Phong Ấn Mệnh Lệnh của Risei tốt hơn là công dụng chính của chúng. Dù không có Gia Huy Phép Thuật, anh vẫn có khả năng sử dụng phép thuật với sức mạnh tương đương. Thậm chí anh còn có thể đánh bại cả pháp sư thực thụ.
Trận chiến cuối cùng giữa các Servant vào tối nay sẽ quyết định kết quả cuối cùng của Cuộc Chiến Chén Thánh. Kirei chỉ cần làm người đứng ngoài ngoài chờ thời cơ đến. Mối bận tâm lớn của anh chính là cuộc đấu trí giữa các Master hơn là cuộc đọ sức của các Servant – đối thủ mạnh nhất của anh sẽ xuất ở đó.
Emiya Kiritsugu. Hắn là kẻ duy nhất có khả năng đối chọi với Kirei.
Kirei luôn mong mỏi được đấu với Kiritsugu. Nhưng vì hắn là một sát thủ cẩn trọng, nên mong muốn của anh tưởng chừng nhưng không bao giờ thành. Anh cần phải nắm bắt tình hình và giữ vững lợi thế của mình khi cái viễn cảnh giáp mặt Emiya Kiritsugu thực sự đến. Nếu Kiritsugu nắm thế thượng phong thì Kirei sẽ tiêu ma trước khi nhìn thấy gương mặt của địch thủ. Nếu mà như thế thì hỏng rồi.
Emiya Kiritsugu không biết gì về cống thoát nước này, anh tin chắc là vậy. Nếu không thì Uryū Ryūnosuke đã bị giết trước khi có vụ thủy quái xuất hiện. Tên đó lẽ ra không bị Kiritsugu ám toán nếu gã chịu ở lì trong này. Nhưng nhờ thế mà Kirei yên trí để cho đối thủ phải sốt vó chạy vòng vòng tìm kiếm khắp nơi. Đồng thời anh còn được chủ động quyết định địa điểm chiến đấu.
Kiritsugu hành động theo tư duy. Kirei sẽ đi trước hắn, khiến cho suy luận của hắn phản lại hắn, đánh lạc hướng hắn cho đến khi hắn bắt buộc phải lộ diện trước Kirei – như vậy sẽ đạt mục đích. Bây giờ chỉ còn chờ đêm xuống.
Kirei nhìn sang góc tối nơi vừa vọng ra tiếng rên rỉ đau đớn. Homunculus của nhà Einsbern bị Berserker bắt cóc được đưa về đây. Cô ta được đặt nằm giữa Vòng Tròn Pháp Thuật thô sơ để có thể hấp thụ prana xung quanh. Dù ở đây không phải là nơi giao mạch nhưng vẫn còn lượng prana tích tụ lúc Caster tế người và tiêu hóa linh hồn của họ. Việc cung cấp prana cho cô ta không phải để cô dễ chịu hơn mà là để cô duy trì thể trạng của mình. Tất nhiên cách đơn giản hơn là mổ bụng cô ta rồi lấy “Vật Chứa Chén Thánh” ra. Nhưng Kirei muốn được nói chuyện với cô ta. Vậy nên anh mới bỏ công sức là chuyện phiền phức này.
“Này con đàn bà kia, mi nghe thấy ta nói không?”
“…”
Homunculus mở mắt, thở phều phào. Mắt cô ta trông thất thần, chắc là thị lực đã bị giảm sút nhiều, nhưng cô ta vẫn nhận ra giọng nói của kẻ địch.
“Kotomine… Kirei. Đúng như tôi nghĩ, ngươi chính là…”
“Người chiến thắng Heaven’s Feel coi như đã được định đoạt. Có thể ta sẽ là người hoàn thành ý nguyện muôn đời của nhà Einsbern bọn mi.” - Thực ra anh chưa đủ tự tin để tuyên bố chiến thắng tuyệt đối, kết luận như thế đúng là có hơi chủ quan - “Hình như mi vẫn còn muốn phản khán bất hợp tác. Ta khiến mi không vừa lòng sao?”
“Đương nhiên… Chỉ có một người duy nhất mà ta tin tưởng giao Chén Thánh cho … và người đó không đời nào là ngươi, tên đồ tể.” - Cô nói một cách khó nhọc, nhưng sự kiên cường và thù hận trong lời nói vẫn khiến Kirei hải nhíu mày.
“Ta không hiểu. Mi chẳng qua chỉ là con búp bê vận chuyển Chén Thánh. Mi chỉ nên quan làm sao hoàn thành nghi lễ hơn là chuyện ai thắng ai thua. Tại sao mi còn muốn nhúng mũi vào chuyện của các Master trong tình trạng thế này?”
“Phải, làm sao ngươi hiểu được?... Ngươi là loại người không biết ước gì trước Chén Thánh mà.”
Lời nhạo báng thậm tệ này khiến Kirei càng thêm bối rối – mụ đàn bà này có đúng là homunculus không? Tại sao một homunculus không có linh hồn mà lại thể hiện được cảm xúc như vậy?
“Kotomine Kirei… ngươi là kẻ sáo rỗng không hiểu nổi ý nghĩa của cuộc chiến này. ngươi sẽ không thể nào thắng được anh ấy… Để rồi xem; hiệp sĩ của ta, phu quân của ta chắc chắn sẽ tiêu diệt ngươi…”
“… sao mi biết được chuyện của ta?” – Kirei băn khoăn về những gì cô ấy nói. Làm sao mà homunculus này nhìn thấu tâm can anh nhanh đến vậy? Tokiomi không thể làm được thế, cả cha anh hay vợ anh cũng thế.
“Ha, sợ chưa? Được, tôi nói cho mà biết… Emiya Kiritsugu đã nhìn thấu ngươi. Anh ấy đã cảnh giác ngươi và không ngần ngại mà xem ngươi như kẻ địch mạnh nhất … Kiritsugu sẽ hạ ngươi bẵng phương pháp tàn nhẫn và bất nhân hơn bất kỳ ai. Để rồi xem…”
Thì ra là vậy – Kirei gật đầu thỏa mãn. Nếu là hắn – nếu là kẻ hiểu được lý do tồn tại của Kirei – thì hắn chắc chắn là cùng kiểu người như Kirei.
Emiya Kiritsugu không làm anh thất vọng. Cả hai chưa từng gặp mặt nhưng hắn luôn được Kotomine Kirei này đánh giá cao.
“Cám ơn mi. Quả là cầu được ước thấy. Người tên Emiya Kiritsugu thực sự giống như những gì ta tưởng tượng.”
Tuy nhiên, một tràn cười nhạo đáp lại Kirei.
“… Ngươi thật ngu muội. Ngươi nói là ngươi hiểu Emiya Kiritsugu? … Hừm, vớ vẩn thật. Ngươi thậm chí chẳng bằng ngón chân của anh ấy.”
“– Mi nói cái gì?”
Anh cảm giác như toàn thân rụng rời. Lời nói ấy đánh khiến anh động tâm.
“Thật sự… Emiya Kiritsugu nhìn thấu ngươi nhưng ngươi thì không bao giờ nhìn thấu anh ấy… Kotomine Kirei, tâm hồn ngươi không có những gì mà anh ấy có.”
Kirei chộp lấy cổ họng cô ta trước khi nhưng lời nhạo báng kịp thoát ra. Sự giận dữ và chao đảo cuộn lên trong tim Kirei lúc này không như cảm giác của anh khi ở khu rừng Einsbern cho dù trận huyết chiến đó có lặp lại.
“… Ta thừa nhận. Đúng, ta là kẻ sáo rỗng. Ta không có cảm xúc.” – Giọng anh có vẻ đã bình tĩnh lại, hoặc cũng có chút kích động ở mấy tiếng cuối.
“Nhưng khác biệt giữa Kiritsugu và ta là gì? Ta và người đó, ai là kẻ chỉ biết đâm đầu vào chiến tranh vô nghĩa – ai là người không có gì ngoài những chuỗi ngày giết chóc?! Hắn đã vứt bỏ những cảm xúc bình thường và hắn chẳng còn lại gì. Hắn là gì chứ, nếu không phải là một linh hồn lạc lối!?!” - Kirei quát vào mặt cô với tuyệt vọng và khản đục. Câu hỏi của anh bật ra như tiếng gào thét giận dữ của vong linh khốn khổ không tìm được lời giải đáp sau khi đã tổn hao nhiều tâm trí.
“Homunculus, hãy trả lời ta. Tại sao Emiya Kiritsugu cần đến Chén Thánh? Điều ước của hắn trước vật ước nguyện toàn năng ấy là gì!?!”
Kirei nới lỏng bàn tay đang bóp cổ homunculus để cô ta có thể lấy lại hơi sức mà trả lời. đó cũng là để ngầm cảnh cáo cô, nếu anh không nhận được lời đáp án rõ ràng thì anh sẽ cho cô ngưng thở vĩnh viễn.
Tuy nhiên, người đàn bà này không hề có dấu hiệu sợ hãi. Cũng quỳ đối diện với Kirei, cô yếu ớt lấy lại hơi thở trông thật đáng thương. nhưng ánh mắt cô nhìn Kirei đầy chế giễu và cao ngạo như đang nắm phần thắng. Có vẻ chỉ có Kirei là kẻ phải hạ mình.
“Được thôi, tôi nói – điều ước duy nhất của Emiya Kiritsugu chính là cứu lấy nhân loại, là chấm dứt tất cả chiến tranh và đổ máu, đem lại hòa bình mãi mãi cho thế gian này.”
Kirei lại thấy nó giống như một trò đùa vô nghĩa.Vài giây sau, anh cười sặc.
“– Cái quái gì thế?”
“Ngươi không thể hiểu được đâu. Đó là khác biệt giữa ngươi và anh ấy. Ngươi không có niềm tin nhưng anh ấy lại có.”
Người đàn bà này đang nói về Emiya Kiritsugu? Kirei ngờ vực. Emiya Kiritsugu đã đeo lớp mặt nạ gì khi gặp cô ta?
“… này, mi có quan hệ gì với Emiya Kiritsugu?”
“Tôi là người vợ đã sinh cho anh ấy một đứa con. Anh ấy mở lòng san sẻ với tôi những ưu phiền suốt chín năm qua… không như ngươi, ngươi thậm chí còn chưa được gặp anh ấy.”
Chín năm. Lẽ nào hắn sống trong giả dối suốt thời gian dài như vậy? Kirei thắc mắc, bản năng của anh cho thấy chuyện này thật không tưởng. Điều gì khiến người đàn bà này toàn tâm toàn ý với Emiya Kiritsugu. Thật khó tin rằng cá tính mạnh mẽ của cô ta hình thành bởi lời dối trá vô nghĩa. Người đàn bà này dù gì đi nữa thì cũng chỉ là một homunculus thuần túy mà thôi.
Cơn giận dữ của Kirei tan biến dần dần, anh thở dài buồn chán rồi ngồi vào cái ghế bên cạnh.
“Irisviel von Einsbern, cô luôn làm một người vợ tốt trong chín năm đó ư? Có đúng là cô đã giành được trái tim của Emiya Kiritsugu không?”
“… Sao ngươi lại quan tâm điều đó?”
“Ta không hiểu chuyện gì giữa hai người. Cô khiến Emiya Kiritsugu trở thành một người chồng và tin rằng hai người là một đôi. Nhưng nếu Emiya Kiritsugu cũng là người truy cầu Chén Thánh thì đáng lẽ cô chỉ là công cụ để hắn đạt được điều ước. Không lý nào hắn lại dành thứ tình cảm thừa thãi ấy cho cô.”
“… Ta không tha cho ngươi nếu ngươi dám cười chê anh ấy.”
Những lời mạnh mẽ để bảo vệ cho điều bất khả xâm phạm đối với người đó.
“… Tôi không có cha mẹ, và cũng không được sinh ra nhờ tình thương. Do đó, tôi không thể hiểu thế nào là một ‘người vợ tốt’. Nhưng dù sao… tình yêu mà anh ấy giành cho tôi là cả thế giới của tôi. Không ai được xúc phạm nó.”
“Irisviel, cô quả là một người vợ hoàn hảo.” - Kirei miễn cưỡng đáp. Đó không phải là lời khen mà cũng chẳng phải là lời mỉa mai. - “Nhưng ta vẫn chưa hiểu tại sao Emiya Kiritsugu lại vậy. Nếu hắn yêu thương người vợ là mi thì tại sao… tại sao hắn còn muốn nền hòa bình thế giới trường tồn? Tại sao hắn lại hy sinh người yêu cho cái lý tưởng viễn vông đó?”
“… Câu hỏi ngớ ngẩn thật. Một kẻ tự nhận mình là không biết ý nghĩa tồn tại của chính mình như ngươi… Ngươi lại đi khinh thường người khác, nói lý tưởng của người ta là vô nghĩa sao?”
“Những ai đã từng trải cũng sẽ cười chê hắn.” – Cơn giận khác lại nổi lên, Kirei lại cáu tiết. - “Khát chiến là một bản năng của con người. Loại bỏ nó thì chẳng khác gì loại bỏ con người vậy. như thế còn chưa đủ thấy vô nghĩa ư? Cái gọi là lý tưởng của Emiya Kiritsugu ấy còn không xứng để gọi là lý tưởng, mà chỉ là giấc mơ trẻ con thôi!”
“… Vì vậy cho nên anh ấy chỉ có thể trông cậy vào phép màu…” – Irisviel cố hết sức vừa giữ vẻ bình thường vừa nói tiếp. - “Anh ấy đánh đổi tất cả cho lý tưởng của mình… Anh ấy luôn đau khổ, như chịu hình phạt vì mong muốn cứu lấy thứ không thể cứu vãn được, mọi thứ xung quanh anh ấy trôi vuột khỏi tay… Tôi cũng là người bị trôi vuột khỏi vòng tay của anh ấy. Anh ấy đã bao lần gượng ép bản thân kìm nén cảm xúc của mình …”
Kirei đứng dậy nhìn Irisviel với cặp mắt u ám.
“Mi muốn nói rằng không chỉ lần này, mà đó đã thành lẽ sống của hắn?”
“Phải. Kiritsugu vô cùng tốt bụng. Anh ấy không ngăn cản con tim của mình dẫu biết rằng mai này anh ấy sẽ mất tất cả…”
Như thế quá đã đủ, Kirei không còn hứng thú gì với homunculus trước mặt nữa.
“… Ta hiểu rồi.”
Anh bấu lấy cổ họng cô ta bằng mấy đầu ngón tay, khiến cho mạch máu bị tắc nghẽn. nhìn vào vẻ mặt yếu ớt đau đớn, anh thản nhiên nói:
“Cuối cùng thì ta đã hiểu. Vậy đấy chính là Emiya Kiritsugu.”
Kirei ném người đàn bà vừa tắc thở ra một xó, ánh mắt trống rỗng và tối tăm. Kirei thấy mình đã nghĩ sai từ đầu – nghi vấn của anh đã được giải đáp nhưng lại khiến anh thất vọng.
Emiya Kiritsugu không tìm kiếm ý nghĩa đằng sao vòng luẩn quẩn vô nghĩa. Hắn chỉ phó thác những thứ có ý nghĩa cho thứ không tồn tại. Tuy không phải là không mơ ước, nhưng mơ ước của hắn thật nhảm nhí, thậm chí còn khiến hắn rơi vào lầm lạc. Mọi nỗ lực của hắn chỉ vô ích và cả những gì hắn đã phí phạm, thật ngu hết thuốc chữa.
Có thể Kiritsugu đã nhìn thấu trái tim trống rỗng của Kotomine Kirei, và hắn sợ sự trống rỗng nên hắn trốn tránh. Nhưng hắn không bao giờ hình dung được cảm giác mang theo sự trống rỗng này như thế nào. Hắn không hề mong sẽ hiểu cho khát vọng mà Kirei ấp ủ.
Cuộc sống của Emiya Kiritsugu có thể nói gọn lại là những chuỗi ngày vứt bỏ mọi thứ. Niềm vui và hạnh phúc là thứ hắn vứt bỏ - kể cả những phần quan trọng mà Kirei cho rằng chúng đáng được dành cả cuộc đời này để bảo vệ, hay thậm chí đáng để hy sinh. Một người sống trong mấ mát mà chẳng biết tý gì là vui thú hay hạnh phúc như Kirei thì cuộc sống của Kiritsugu là điều anh mơ ước và ngưỡng mộ.
Khao khát cháy bỏng trong lòng anh lại bị khinh thường và chế giễu như vậy – Làm sao anh có thể chịu đựng được? Làm sao anh không căm ghét cơ chứ?
Tà niệm chiếm lấy tâm can Kirei, toát ra từ nụ cười của anh. Anh đã nhận ra lý do chiến đấu. Anh hoàn toàn không hứng thú với Chén Thánh. Anh không quan tâm đến chuyện đạt được điều ước nữa. Nhưng anh sẽ tự tay đập tan ước mơ của hắn, của kẻ đánh cược mọi thứ vào phép màu này. Rồi đến Chén Thánh vô dụng cũng sẽ được dùng vào việc đó.
Cảm giác phấn khích được chiến đấu khiến hai tay Kirei run lên. Chiến ý trong anh bốc lên cao đến độ anh muốn ngay lập tức rút Hắc Kiện Kiếm ra đâm chém mọi vật trước mặt.
Trong bóng tối đậm mùi máu tanh, Kotomine Kirei cười thật to như chưa bao giờ được cười sau ngần ấy năm – tâm hồn anh đang thực sự rộn ràng.
-04:16:49
Waver thức dậy sau một giấc ngủ ngon lành không mộng mị.
Khi cậu mở mắt được thì mọi vật xung quanh tối lại như đang chìm trong giấc ngủ. Cậu đã ngủ cả buổi sáng, đến khi thức giấc thì trời đã đầy sao.
Màn đêm lại buông xuống lần nữa. Với những ai còn Servant thì đây là lúc bắt đầu cuộc chiến không tránh khỏi. Gió đêm lạnh cắt gia cắt thịt, khiến cậu cảm thấy không được dễ chịu cho lắm; bên phải cậu là một người có thể khiến cho cảm giác bồn chồn lo lắng của cậu tan biến tức thì.
Rider, hiện đang ở dạng vật chất, đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng chiến đấu và đang lướt qua cuốn sử thi về chính mình được viết bởi thi sĩ Homer. Cuốn sách bìa dày đó quá nặng và ngán ngẩm đối với Waver nhưng lại nhỏ và nhẹ trong mắt của Vua Chinh Phạt. người đàn ông đô con ấy mải mê trong thế giới của ngôn từ. Cái cách ông lật trang giấy có vẻ rất say sưa; ông đặc biệt đọc kỹ từng chữ một theo đầu ngón tay rà trên mặt giấy.
Hình như ông ta thật sự rất thích quyển sách ấy. Waver không kìm được nụ cười nơi khóe miệng. Nếu bây giờ cậu hỏi Rider, “Vì sao ông lại được sinh ra trên đời này?” thì câu trả lời có lẽ không phải là tham vọng chinh phục thế giới mà là “nếu không có ngón tay thì ta chẳng biết làm sao đọc được cuốn tuyển tập thơ của Homer”. Ông ta là kiểu người như vậy đấy. Là vị anh hùng nuôi hoài bão lớn trong tim, là kẻ biết thưởng thức đồ ăn và rượu ngon, là người dám bày tỏ tham vọng chinh phạt thế giới như khao khát được ăn được ngủ. Phẩm chất đặc biệt của ông đã lôi cuốn biết bao nhiêu người nguyện theo chân ông cả đời.
Trong lịch sử nhân loại từng có một người như thế.
“—Nn? Dậy rồi à nhóc?”
Rider đã đọc đi đọc lại về những chiến công của Achilles không biết bao nhiều lần mà vẫn không thấy chán. Ông nhìn Waver mà cười như một đứa trẻ tinh nghịch. Có lẽ ông luôn cười như thế với bất kì ai, dù là với các anh hùng đã cùng ông vào sinh ra tử, hay là với một Master tư chất kém cỏi như Waver.
“… Chẳng phải tôi đã bảo ông là phải đánh thức tôi dậy ngay khi chập tối còn gì? Rút cuộc ông đang làm cái gì vậy?”
“À, xin lỗi. Ta mải đọc sách nên không nhận ra. Nhưng trời mới vừa tối thôi. Ta thấy đêm nay không cần quá lo lắng đâu; chứ thẳng tiến xông lên là được.”
“Tại sao?”
Câu hỏi tiếp theo khiến ông ta há hốc miệng chành vành, rồi bắt đâu suy tư.
“… Ô. Cái này ta không giải thích được, nhưng mà ta có linh cảm tối này sẽ là trận quyết định.” – Ông ấy nói như thể không có vấn đề gì cả.
Waver gật nhẹ mà không hỏi gì thêm. Cậu cũng không giải thích được tại sao nhưng cậu có cảm giác như đến cả không khí ở đây cũng nói lên rằng Heaven’s Feel đã bước vào giai đoạn đỉnh điểm. Chỉ một lời duy nhất có thể diễn tả được là – vì không khí đêm nay quá yên tĩnh.
Theo những gì Waver đã biết, những kẻ đã bị loại là Assassin do Rider đích thân ra tay, và Caster bị tiêu diệt ở sông Mion. Nhưng tất nhiên là ở những nơi khác mà cậu không biết, cuộc chiến vẫn tiếp tục và có nhiều biến chuyển.
Cứ mỗi ngày trôi qua, cậu lại thấy nhiều chuyện lạ trong thị trấn này xuất hiện rồi biến đổi nhanh chóng từ ồn ào hỗn loạn sang nặng nề khẩn trương. Điều ấy làm cậu thấy bất an hơn cả lúc đánh nhau với Saber hồi đêm hôm qua. Có vẻ như bên phía Einsbern cũng đang lâm vào tình thế nguy hiểm.
Do đó, Waver không vặn hỏi gì về linh cảm của Rider. Ông ta là Vua Chinh Phạt, người đã đi qua vô số chiến trường, nhiều lần ra quân lệnh cũng như chiến thuật, nên cảm quan của ông dĩ nhiên là đáng tin cậy hơn một người non choẹt như Waver. Cho dù Huân tước El-Melloi vẫn còn sống khỏe thì… chuyện liên quan đến kẻ mà cậu từng căm ghét chỉ khiến cậu có cảm giác buồn bực khó tả.
Waver đã trải qua quá trình rèn luyện với cấp độ không tưởng để mau đạt được năng lực chiến đấu cùng với Heroic Spirit. Cho dù cậu tự hào về tài năng của mình trong lĩnh vực phép thuật nhưng Heaven’s Feel không theo lý luận pháp thuật thông thường. Nhận thấy rằng ngay đến El-Melloi cũng từng trải qua gian khổ như cậu, cậu cảm thấy hài lòng và còn có một tí đồng cảm. Trong số sáu Master thì chỉ có mình Kayneth là có quen biết Waver từ trước, bất kể là tốt hay xấu. Cảm giác như vậy đối với một đối thủ đã từng đấu đá nhau ngay từ lần gặp đầu tiên – Waver thấy cách nghĩ của mình đang thay đổi.
——Ừ; chuyện yêu ghét thế nào không quan trọng nữa, cậu muốn Heaven’s Feel tốt hơn là nên kết thúc.
Cậu vừa ngáp vừa rướn người rũ bỏ cơn buồn ngủ.
“Cái—gì đây?”
“Prana tăng nhanh khác thường. Giống như ta từng gặp trước đây.”
Nghe Rider nói Waver mới nhớ ra. Pháo hiệu của Holy Church triệu gọi các Master. Chính là cảm giác này.
Cậu bước ra khỏi bụi cây để nhìn lên bầu trời; phía đông bắc có pháo sáng, rực rỡ hơn cả lần triệu tập đầu tiên.
“Hình này là…”
“Là gì vậy? một thông điệp à?”
Nghe Rider hỏi, Waver—tuy không dám chắc— gật đầu đáp:
“Màu sắc khác nhau, bốn và bảy… Nghĩa là ‘Đế Vương’, hoàn tất, và ‘Chiến xa’, chiến thắng. Giải nghĩa thông điệp này… không lẽ lại là người chiến thắng trong Heaven’s Feel đã xác định?”
Đáp án của Waver khiến Rider nhíu mày.
“Cái gì chứ? Dám coi như không có ta à? Vậy thì ai mới là người giành chiến thắng?”
Kì lạ thật. Trong Heaven’s Feel, chỉ khi người hạ được tất cả các Master và Servant đối địch thì mới gọi là chiến thắng. Nhưng hiện tại Rider và Waver vẫn còn đứng đây làm sao có thể coi như chiến thắng đã được định đoạt?
“… hơn nữa, điểm bắn pháo sáng không phải là nhà thờ Fuyuki. Lạ quá. Có lẽ thông điệp này không phải từ người của Nhà Thờ.”
“À. Nếu nhóc nói vậy thì còn chấp nhận được.” - Rider khịt mũi đáp.
“S—sao hả?”
“Chắc hẳn là có tên nào đó không chờ được nữa nên tự tuyên bố chiến thắng thay cho lời thách thức ‘Nếu ai phản đối thì nhào dô đi’. Nói cách khác, hắn muốn dẫn dụ đối phương vào trận địa mà hắn chọn.” - Rider cười nham hiểm. Ông nhìn pháo sáng lấp lóa trên trời, tựa như muốn nói ‘Hợp với ý ta đấy’ - “Hay lắm, hay lắm. giờ thì ta không cần mất công đi tìm nữa. Ta không tin là có Servant nào lại chịu ngồi yên trước lời thách thức này. Những tên còn sống chắc chắn sẽ tập trung xung quanh khu vực vừa mới bắn pháo sáng. Hừm, đúng như ta nghĩ, đêm nay sẽ là trận chiến quyết định.”
Thân hình to vạm vỡ của Vua Chinh Phạt đang rung lên nhiệt huyết chiến đấu. Waver lạnh lùng liếc qua vị Heroic Spirit mạnh mẽ và quả cảm này, như hàm ý muốn chờ quan sát từ xa.
“Là nó phải không? Giai đoạn cuối cùng ấy.”
“Đúng vậy. Một khi chiến trường đã được xác lập, ta không thể để cho hệ Rider bị ô danh được.” - Rider tuốt trường kiếm Celtic chĩa lên trời.
“Tới đây nào, chiến mã yêu quí của ta!”
Theo tiếng gọi, tia hào quang rực rỡ phát từ khoảng không mở ra kết giới, là ánh sáng khi Heroic Spirit xuất hiện mà Waver đã quá quen thuộc với nó.
Tiếng ngựa Heroic Spirit vang lên, Bucephalus. Chiến mã huyền thoại đã từng đưa Vị Vua Chinh Phạt tung hoành miền Viễn Đông. Hôm nay nó được đưa xuyên qua thời gian để sát cánh cùng ‘chiến hữu’ của nó. Con ngựa giậm vó trên đường nhựa, hí vang tiếng gọi của chiến trường.
Lá bài chủ lực của Alexander là ‘Ionian Hetairoi’ yêu cầu phải mở kết giới Reality Marble để kết nối với thế giới thật nên nó cần hội đủ nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, cũng giống như anh lính truyền tin Mithrenes lúc ở sông Mion, nếu chỉ triệu hồi một người một ngựa thì đơn giản hơn nhiều. Sau khi mất ‘Cỗ xe Gordius’, Rider chỉ con ngựa này là có thể phát huy kỹ năng điều khiển thú của mình.
“Lại đây, nhóc. Tuy không được êm ái như cỗ xe kéo nhưng một lúc là sẽ quen thôi. Lên yên nào.”
Rider ngồi trên lưng ngựa, nhích người ra sau để chỗ cho Waver. Nhưng cậu chỉ gượng cười lắc đầu.
Chỉ có các anh hùng mới xứng đáng được cưỡi trên con ngựa độc nhất vô nhị ấy, làm gì có chỗ cho một đứa trẻ người non dạ chứ. Cũng như một pháp sư vô dụng chẳng làm nổi phép thôi miên, phép căn bản nhất trong các phép căn bản… Hay như một tên hề tự cao chỉ có thể lẽo đẽo theo sau chân nhà vua… Con đường vinh quang của Vua Chinh Phạt Alexander không chừng sẽ vì thế mà bị bôi nhọ.
Waver hiểu —đêm trước— chính cậu, với tư cách là một Master, đã để cho cơ hội hạ gục Saber của Rider trở thành công cốc. Lúc đó nếu Rider toàn tâm đối phó với ‘Thanh Gươm Tất Thắng’ thì biết đâu ông ta lách qua được Noble Phantasm của Saber trong khoảng cách mong manh và đè bẹp Vua Hiệp Sĩ dưới móng vó của con bò thần. Nguyên do ông ấy bỏ cuộc vào phút cuối là vì - Master đang bên cạnh ông trên cỗ xe. Vào giây cuối, Rider đành phải bỏ lại cỗ xe vì cứu lấy tên hề bên cạnh. Nếu như mà ông ấy thấy không thỏa mãn với người lập khế ước đưa ông đến thế giới này thì cũng chẳng sai chút nào. Cơ hội chiến thắng trong trận chiến giữa Rider và Saber lúc đó phụ thuộc vào một điều, đó là Master của họ có ở đó hay không.
Waver Velvet từng tự mãn rằng mình có thể chiến thắng, nhưng bây giờ thì khác. Sau hai tuần vừa qua, cậu đã được tận mắt chứng kiến bản sắc của anh hùng thật sự, còn mình thì thật vô dụng và điêu đứng.
Ngay đến con chó lang thang cũng có nhận thức. Ít nhất thì nó biết đâu là chỗ đứng của mình—
“Hỡi Servant của ta. Ta, Waver Velvet, dùng Phong Ấn Mệnh Lệnh này ra lệnh cho ngươi.”
Cậu giơ nắm tay phải của mình lên, để lộ ra Phong Ấn Mệnh Lệnh chưa hề được sử dụng. Chúng là sợi xích ràng buộc vị Heroic Spirit trước mặt cậu, là chướng ngại lớn nhất cản trở mộng bá vương của ông.
“Rider, ngươi phải giành lấy chiến thắng cuối cùng.”
Đấy không phải là khống chế mà chỉ là việc đương nhiên phải làm. Nên Waver ra lệnh này, con tim cậu như bừng lên ánh sáng của Phong Ấn Mệnh Lệnh đầu tiên được giải phóng prana và lặn mất.
“Bằng Phong Ấn Mệnh Lệnh tiếp theo, ta ra lệnh – Rider, ngươi hãy giành lấy Chén Thánh.”
Khi Phong Ấn Mệnh Lệnh thứ hai biến mất, cậu cảm thấy đau nhói trong tim. Nếu cậu rụt tay lại thì có lẽ còn kịp – cậu thoáng nghĩ. Bây giờ mà còn do dự thì thật là khờ.
“Bằng Phong Ấn Mệnh Lệnh cuối cùng, ta ra lệnh.”
Waver vươn cánh tay mang Phong Ấn Mệnh Lệnh cuối cùng một cách cương quyết về phía vị vua trên yên ngựa. Trong khoảnh khắc ấy, Waver có thể nhìn thẳng vào mắt ông mà không chút rụt rè. Đây là lần cuối cùng và là lần duy nhất cậu hãnh diện với tư cách là một Master. “Rider, ngươi phải giành lấy cả thế giới. Không được phép thua.”
Dấu ấn thứ ba nhanh chóng giải phóng prana, tạo nên cơn gió lốc trong chốc lát. Waver có thể là một pháp sư mà cả đời này không bao giờ làm nổi thuật phép phi thường. Nhưng trong tận đáy lòng, cậu tin rằng cả đời cậu có hành động vừa rồi là thỏa mãn nhất. Cậu không còn hối tiếc gì nữa. Đây là việc đáng để đánh đổi tất cả.
Waver cúi đầu nhìn bàn tay đã không còn dấu ấn giao ước, không còn vết tích gì.
“Và dĩ nhiên, tôi không còn là Master của ông nữa.” - Waver nói mà mắt cứ nhìn dưới chân. Cậu không muốn nhìn thấy cảm xúc của Rider đối với cậu lúc này. Có thể là ngạc nhiên vì Waver đã hèn nhát rút lui khỏi cuộc chiến; hoặc có thể là cười nhẹ nhõm vì được giải thoát khỏi tên Master vô tích sự. Dù là gì thì cậu cũng không muốn biết. Nếu có thể, cậu mong Rider quên luôn cả quãng thời gian quen biết nhau.
“Đi đi. Ông có thể đi bất cứ đâu, ông không còn…”
“Ồ”, tiếng đáp lại thật đơn giản.
Sau đó, thay vì nghe được tiếng vó ngựa phi nước đại vang trên đường, cậu lại cảm giác như mình bị xách cổ lên. Giây sau đó, cậu thấy mình đã an vị trên yên con ngựa Bucephalus.
“Dĩ nhiên là ta sẽ đi—nhưng mà nhóc đề ra mấy yêu cầu phiền toái đó, có chắc là cậu không hối tiếc gì chứ? Phải đến xem coi mệnh lệnh hoàn thành như thế nào chứ.”
“Ông, ngốc, ngốc quá đi! Tôi nói à… hở!” – Ý định ban đầu của Waver thay đổi cái một, cậu ú ớ không biết nói sao. Con Bucephalus khịt mũi như thể chế giễu sự hoảng hốt của cậu. Ngay đến con ngựa còn chế giếu cậu, huống chi là người cưỡi – ý nghĩ này khiến trong cậu nổi lên cơn giận khó tả. Cậu gào lên: “Tôi không còn Phong Ấn Mệnh Lệnh nào nữa! Tôi không muốn làm Master nữa! Tại sao ông còn muốn đưa tôi theo hả? Tôi—“
“Dù cậu có còn là Master hay không, cậu vẫn là bạn của ta, mãi mãi là vậy.”
Waver biết những lời đó, cùng với nụ cười thân thuộc ấy là từ ông. Phần ương bướng trong tim cậu bị phá vỡ - cảm xúc mà cậu kiềm nén từ bấy đến giờ trào ra như nước vỡ đê. Hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi không ngừng, cùng với tiếng sụt sịt ở mũi; cậu nghẹn ngào không nói được thành tiếng. Miễn cưỡng lắm cậu mới nói được trong tiếng nấc:
“… Tôi… người như tôi… có thể… tôi mà có thể… sát cánh bên ông…?”
“Sau bao nhiêu lần cùng ta ra trận mà cậu còn nói thế sao? Ngốc thật.”
Câu nói bông đùa của Vua Chinh Phạt khiến cậu bật cười ngưng khóc. Ông ta vỗ lên đôi vai gầy của cậu.
“Chẳng phải cậu rất ra dáng đàn ông khi cùng ta đối mặt với kẻ địch ư? Vậy cậu là bạn ta. Hãy hiên ngang kề vai sát cánh với ta nào.”
“…”
Waver không còn thấy mặc cảm. Cậu quên hết cái khổ sở của ngày hôm trước, cái nhút nhát khi hướng tới tương lai, và cả nỗi sợ hãi lúc đối diện với cái chết. ‘Chiến và thắng’—niềm tin vững chắc mở lối trong tim cậu. Không còn thất bại; không còn xấu hổ; giờ đây cậu được ở bên nhà vua trong khi người còn niềm tin theo đuổi ý nguyện của mình, đặt bàn chân không tưởng lên khắp phương trời – chắc chắn là như thế.
“Vậy thì, bây giờ ta sẽ đáp lại Phong Ấn Mệnh Lệnh thứ nhất. Hãy mở to mắt mà xem cho rõ nhé, nhóc.”
“À, nhất định tôi sẽ trống cả hai mắt lên xem!”
Con chiến mã huyền thoại hí lên âm thanh phấn khích rồi bắt đâu phi nước đại, đưa nhà vua và pháp sư cùng chung ý chí hướng thẳng vào trận chiến quyết định với kẻ địch.
Vị trí được xác định bởi pháo sáng là ở đối diện ngân hàng gần sông Mion, nơi giao mạch tâm linh thứ tư của Fuyuki.
-04:10:33
Hội sở thành phố Fuyuki –
Công trình này tiêu tốn tám tỷ yên, được xem là biểu trưng cho sự phát triển của Fuyuki Shinto, cùng với Cao Ốc Trung Tâm ở trước nhà ga tàu điện. Diện tích khuôn viên 6600 mét vuông và diện tích tòa nhà là 4700 mét vuông. Tòa nhà gồm 4 tầng lầu, một sảnh và một hầm ngầm. Hội trường hai tầng có sức chứa khoảng 3000 người. Vị kiến trúc sư thiết kế tòa nhà theo kiểu dáng độc đáo mới lạ, một hội sở với mang phong cách hiện đại hoành tráng nhưng không kém phần lộng lẫy như một ngôi đền cổ kính. Tham vọng của hội đồng thành phố Fuyuki đối với sự phát triển của Shinto có thể thấy được qua kiến trúc của hội sở này.
Tuy nhiên, chỉ có phần bên ngoài là hoàn tất. Nội thất bên trong vẫn đang trong tiến trình chuẩn bị cho buổi lễ khánh thành. Công dụng chính của tòa nhà thì còn phải mất thêm một thời gian nữa mới đưa vào hoạt động. Ngoài ra, để giảm khả năng xảy ra sự cố đến mức tối thiểu, tòa nhà này vẫn chưa được kết nối với hệ thống điện. Vào đêm khuya, khi không còn công nhân nào làm việc, tòa nhà này trở nên trống trải u ám, im lìm không chút sinh khí.
Việc quy hoạch khu đất không bao gồm ý kiến của giới pháp thuật. Đây hoàn toàn ngẫu nhiên mà Hội sở Thành phố được xây ở trung tâm nơi giao mạch mới nhất của Fuyuki. Có lẽ trường hợp hiếm có này là do những đặc trưng khác thường dưới sự ảnh hưởng của khu vực giao mạch được trời ban phú này.
Kotomine Kirei đứng trên nóc nhà ngước nhìn các biểu tượng phép thuật bằng pháo sáng trôi trên bầu trời đêm. Giờ anh chỉ việc phá khóa đột nhập vào tòa nhà không được bảo vệ. Anh đã chuẩn bị đủ mọi thứ cần thiết cho lễ tế và trang bị chiến đấu. Tiếp sau đó là chờ các đối thủ còn lại theo pháo hiệu mà tự dẫn xác đến.
Cuộc chiến đang đến gần mà anh chẳng cảm thấy gì đặc biệt. Các thừa hành giả không nhất thiết phải hứng thú với cảnh đẫm máu, hay phải pha trò cho bớt căng thẳng. Họ có những đặc điểm thích hợp để trở thành công cụ phục vụ Đức Chúa, lao vào chết chóc mà chỉ biết có mỗi nhiệm vụ cần được hoàn thành. Nhiều năm dài huấn luyện giúp cho Kirei trở nên lãnh đạm vô cảm như một bác sĩ trong ca phẫu thuật.
Tuy nhiên –
“Hừm. Mặt của nhà ngươi vẫn lạnh tanh như mọi khi nhỉ, Kirei.” – Archer ung dung bước tới, không quên nói móc anh.
Kirei thầm cười lạnh. Khuôn mặt lạnh lẽo mà anh mang hàng ngày trông như thế nào trong mắt của vị Heroic Spirit có thể nhìn thấu được mọi thứ? Có những khi thay đổi cảm xúc mà bản thân anh còn không nhận ra, vậy mà lại không qua mắt được vị Heroic Spirit này.
Dù đầu óc đang rối rắm, anh vẫn cố suy nghĩ. Phải, anh đúng thật là kẻ lạnh lùng – anh nhận thức về bản thân thông qua việc phân tích về người khác.
Vị Vua của Anh Hùng, vừa trở về sau khi đi dạo quanh phố chợ đêm, vẫn còn diện bộ đồ sành điệu. Vẻ phơi phới vẫn còn trong đôi mắt màu huyết, cậu ta tỏ ra không thấy cấp bách trước cuộc chiến gần kề. Nhưng vị Heroic Spirit chẳng bao giờ khiến vẻ ngoài của mình khác với cảm xúc bên trong. Trận chiến vây quanh Chén Thánh chỉ như trò trẻ con với cậu ta.
“Ngươi muốn ta làm gì tiếp theo đây hả, Kirei? Ngồi chờ ở chỗ này ư?”
Một mệnh lệnh sai có thế khiến Archer nghi kỵ về năng lực của Master. Kirei biết rất rõ điều này, anh nghĩ thật kỹ rồi mới lắc đầu.
“Lễ tế có nguy cơ bị phá hỏng nếu năng lượng của cậu sử dụng ở gần Chén Thánh. Nếu cậu muốn chơi thì cứ ra đánh trận tiên phong.”
“Ừm, được. Nhưng ngươi định thế nào nếu bị tấn công khi không có ta?”
“Cho Berserker cầm chân kẻ địch, tôi sẽ có thời gian triệu hồi cậu quay về. Tất nhiên là cần phải nhờ đến Phong Ấn Mệnh Lệnh. Không phiền cậu chứ hả?”
“Chuẩn tấu. Nhưng mà ta không đảm bảo Chén Thánh an toàn đâu đấy. Tối nay ta sẽ không nương tay đâu. Cái căn phòng bé tẹo này tan hoang hết.”
“Đó là tình huống tệ nhất, âu cũng là cái số.”
Kirei chấp ý nhưng Archer thì săm soi lại anh.
“Kirei, coi như ngươi đã hiểu được ý nghĩa của cuộc chiến này đi, nhưng không lẽ ngươi vẫn không có ước nguyện gì trước Chén Thánh ư? Không có lấy một điều ước dù được ban phép màu ư?”
“Đúng vậy. Thế có gì sai?”
“Tuy chưa hoàn thiện nhưng ít ra ‘vật chứa’ đã ở trong tay ngươi. Biết đâu nó cho phép ‘đặt chỗ trước’ điều ước không chừng.”
“… Hừmm, hiểu rồi. Ý cậu là có khả năng phép màu được thực hiện cùng lúc Chén Thánh giáng trần phải không?” - Kirei im lặng thở dài, hồi sau mới lên tiếng. - “Tôi vẫn chưa ước muốn điều gì. Nếu có thì… tôi ước gì không người vô tội nào bị vạ lây bởi trận chiến này. Không may thay, tất cả dân chúng đều ở xung quanh chúng ta. Phải chi chiến đấu ở chốn không người thì hay biết mấy.”
Câu trả lời hoàn toàn tẻ ngắt, Gilgamesh khinh khỉnh:
“Hà, bí ẩn trong lòng ngươi đúng là chỉ có Chén Thánh mới khám phá được.”
Càng về đêm, hai kẻ ở gần Chén Thánh hơn ai hết lại càng ít quan tâm đến nó. Với hai người bọn họ, chuyện giành Chén Thánh đáng để tâm nhiều hơn để còn gạt bỏ các đối thủ cạnh tranh.
“– À, còn một chuyện nữa. Nếu Saber đến trước khi ta quay về–” – Vua của Anh Hùng vừa định cất bước thì chợt nhớ ra điều gì, liền dừng lại. - “– thì hãy để Berserker giỡn với cô ta một lúc. Ta giữ lại mạng của con chó điên ấy chỉ vì mỗi việc đó thôi đấy.”
“Hiểu rồi.”
Kirei không hiểu tại sao Archer mềm mỏng với Saber như vậy. Thái độ với Berserker, kẻ chống đối cậu ta suốt từ trận đầu tiên, cũng khác trước. Vua của Anh Hùng tha mạng cho Berserker sau khi biết được tên thật của hắn từ cuộc thẩm vấn Matō Kariya. Cậu ta nói là "Thả cho con chó này cắn Saber cũng là trò hay”. Vua của Anh Hùng luôn nguôi giận mỗi khi nghe chuyện liên quan đến Saber; hình như Gilgamesh rất hứng thú với Vua Hiệp sĩ.
“Ngươi nói xem, Kirei, cái con búp bê mà Saber bảo vệ không kể hiểm nguy ấy ra sao rồi? Cái mà ta nghe gọi là cái quái gì ấy… -Vật chứa Chén Thánh- ở bên trong nó.”
“À, ý cậu là thứ đó.”
Kirei không muốn nhắc đến nó. Hứng thú của anh đã cạn; thậm chí anh thấy không cần thiết phải nhớ cái tên người của nó.
“Tôi vừa giết ả rồi. Chẳng còn lý do gì để giữ ả sống nữa.”
※※※※※
Irisviel mở mắt ngó xung quanh.
Cô cảm thấy rất khác lạ. Cô đã lấy lại ý thức, nhưng lại không tư duy được. Hình như không chỉ tinh thần của cô trống rỗng và mơ hồ, mà cả không gian quanh cô cũng vậy.
Những hình ảnh lướt qua mắt cô. Khi nhìn vào, cô chỉ cảm thấy một cảm xúc nhất là nỗi cô đơn trống trải khôn tả, còn những hình ảnh ấy thì tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, cứ như thể hình ảnh bị biến dạng qua lăng kính hoài nghi.
Đau khổ có, tủi nhục có, hối hận, căm thù, mất mát cũng có.
Vùng đất hoang tàn và đẫm máu. Phản bội và báo thù. Đánh đổi tất cả mà chẳng nhận được gì – một vòng quay khắc nghiệt không đem lại lợi ích nào.
Chuyển sang khung cảnh băng tuyết quen thuộc. chuỗi hình ảnh kể lên câu chuyện về một gia tộc tự nhốt mình trong một lâu đài sâu trong vùng băng tuyết lạnh giá. Và ở đây, cô nhớ lại – cô dõi theo cuộc hành hương nghìn năm của gia tộc Einsbern liên quan đến Chén Thánh.
Thủy tổ Justicia và những hình nhân mô phỏng bà ấy… Chúng là các homunculus, là dạng thức sống giả tạo. Chúng được ban cho hình dáng con người nhờ thuật giả kim bí truyền với mục đích thực hiện di nguyện chưa được vẹn toàn.
Một lịch sử toàn những hão huyền và thất bại của gia tộc Einsbern được viết nên, dùng máu và nước mắt của chính chúng làm mực, dùng xương gãy và ngón tay đông cứng của chính chúng làm bút. Tiếng thở dài tuyệt vọng của chúng như bóp chặt con tim Irisviel.
Nếu tồn tại một nơi có thể thấy được những gì cô đang thấy, thì đó ắt hẳn là nơi tập trung toàn bộ mâu thuẫn cùng với những bằng chứng.
Irisviel cuối cùng cũng hiểu. Cô đang nhìn vào bên trong Chén Thánh.
Đây là Đại Chén Thánh chứa cả thủy tổ Justicia, Đại Chén Thánh ở núi Enzō. Tất cả các homunculus đều được chế tạo theo hình mẫu của ‘Quý Bà Băng Tuyết’. Cho nên chúng có chung một nỗi đau.
– Không, không lẽ đây là sự thật sao?
“Mẹ ơi, sao mẹ lại khóc?”
Irisviel quay sang, thấy mình đang trong phòng cùng với đứa con của cô, an lành và ấm cúm bên lò sưởi.
Bão tuyết gào thét bên ngoài cửa sổ. Đôi bàn tay bé nhỏ nắm chặt lấy cánh tay của mẹ cô bé như tìm kiếm sự che chở.
“Mẹ ơi, Illya mơ thấy ác mộng. Con mơ thấy mình biến thành một cái cốc rượu.”
Tuy trong lòng rất sợ hãi, cặp mắt đỏ của Illyaviel vẫn ngước nhìn Irisviel đầy tin tưởng. Gương mặt cô giống y hệt mẹ cô và các chị của cô, nhưng gương mặt con bé. Con bé đáng yêu hơn hết thảy –
“Bảy khối lớn nằm trong tim của Illya. Khi Illya cảm thấy đau đớn và sợ hãi nhưng không thoát ra được, Illya nghe thấy tiếng nói của Justicia-sama, rồi một lỗ đen thật to trên đầu mình…”
Irisviel ôm chặt lấy đứa con gái. Làn tóc trắng bạc phủ lên gương mặt đẫm lệ của con bé.
“Không sao đâu con, không sao đâu… Chuyện đó sẽ không xảy ra đâu. Con sẽ không phải thấy nó nữa, Illya à.”
Một mong ước bi thương khiến Irisviel khác với đám chị em của cô mà cô không thể chia sẻ với bất cứ ai – đó chính là tình mẫu tử của ‘Người mẹ’. Trong các thế hệ homunculus, chỉ có cô là mang thai và sinh đẻ. Trong tất cả các hình mẫu, chỉ có cô là dành tình thương cho đứa con của mình. Nhưng dẫu vậy, định mệnh mà cô phải gánh vác thật đáng thương.
Illyasviel von Einsbern là Vật Chứa Chén Thánh tiếp theo, và cũng là một cỗ máy làm quay bánh răng nghìn năm của sự ảo tưởng và cố chấp.
Cái xiềng xích ấy sẽ không phá ra được cho đến khi nào có người chiến thắng.
Pháp Thuật Thứ Ba, Heaven's Feel – Thành tựu ấy là cứu rỗi duy nhất.
Âm thanh nhộn nhạo ập đến Irisviel. Tiếng cô hô vang cùng với đám chị em.
Chén Thánh –
Xin hãy trao Chén Thánh vào tay tôi –
Sâu trong cánh rừng, nơi các homunculus phế thải chất thành núi xác và đang lên tiếng. Những khuôn mặt mục rữa quá sức đáng sợ đối với khuôn mặt bé bỏng của Illya đang phát ra những tiếng kêu đau đớn.
“Không sao đâu –” - Người mẹ ôm chặt lấy đứa con gái trong vòng tay tràn đầy thương yêu. - “Illya ạ, chắc chắn con sẽ được giải thoát khỏi vòng xiềng định mệnh ấy. Mẹ sẽ làm tất cả. Chắc chắn cha con cũng sẽ đạt được điều ước ấy…”
Lúc đó, một thắc mắc chợt đến trong đầu cô: Nếu giấc mơ ấy hiện ra bởi Chén Thánh - trong khi cô có thể nhìn thấy bên trong ‘vật chứa’ rõ ràng và hình dạng của nó - vậy thì cái lớp vỏ Irisviel trông ra sao?
Nếu như vỏ trứng có thể trông thấy con gà bên trong thì thật vô lý. Lớp vỏ thì phải vỡ ra khi gà nở chứ. Thế thì – cái cô Irisviel đang mơ ấy là ai?
Cảm giác thân thể nhỏ nhắn của Illyasviel mà cô đang ôm lấy này rất thật. Irisviel nhìn lại vòng tay đang ôm con bé.
Irisviel vốn đã biến mất rồi. nếu con gà đã chui ra khỏi vỏ …
Bên ngoài cửa sổ, tuyết đã ngừng rơi. Thứ tan chảy vào trong đêm tối là bùn đen cuộn lên tầng tầng lớp lớp.
Cô không ngạc nhiên hay sợ hãi; cô chỉ bình thản nhìn thứ bùn ấy thấm qua từ tất cả góc phòng và nhễu cả qua đường ống khói, từ từ trần ra mặt sàn dưới chân cô.
Phải, câu hỏi ‘tôi là ai?’ giờ đã không còn cần thiết nữa. Từ ban đầu, cô đã chẳng là người. Bây giờ, cô vẫn là ‘người’ sử dụng nhân cách của Irisviel, một ngươi phụ nữ đã tan biến như lớp mặt nạ hóa trang.
Bây giờ, điều ước thầm kín Irisviel vẫn là thật. đó là điều ước của một người mẹ dành cho đứa con gái thân yêu, thương tiếc cho tương lai của con bé đến tận khi trút hơi thở cuối cùng. Cô bé được thừa hưởng điều ước mà người mẹ này mang lại.
Do vậy, cô là phải là người thực hiện điều ước ấy. Cô tồn tại là để được tôn thờ và được dự báo trước vì cô sẽ thực hiện điều ước của mọi người, vì cô được tạo ra để là như thế.
“– Không sao đâu, Illyasviel, mọi chuyện sắp kết thúc rồi.” – Cô trìu mến thì thầm vào tai đứa con gái mà cô lần đầu tiên ôm lấy - “vậy hai mẹ con ta cùng chờ một lúc nhé. Cha con nhất định sẽ tới. Cha con sẽ tới giúp mẹ con ta thực hiện điều ước của ba người chúng ta.”
Bùn cuộn lên bám dính lấy cô, nhuộm đen cả váy áo. Tin tưởng chờ đợi thời khắc điều ước được ban, người phụ nữ mà thân thể chìm trong bóng tối ấy mỉm cười.
Xua tan mọi đau khổ và gạt hết mọi phiền muộn.
Rồi đây, cô sẽ nhận được quyền năng thực hiện mọi điều ước và trở thành vật ban ước toàn năng có thể làm được tất cả.
[1] Lizleihi Justicia von Einsbern: một trong các Master của Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ nhất (năm 1800) và là người khám phá ra Greater Grail.
1 Bình luận