“Nè, nè…” Mumei vẫy gọi sau khi chọn một chiếc bàn nhỏ cho bốn người được đặt gần như trong góc phòng rồi ngồi vào.
Tôi nhìn quanh bước theo sau. Căn phòng ăn rộng lớn và xa hoa, chứa phải hơn hàng chục chiếc bàn như vậy. Cũng vẫn là phong cách cổ kính với những trùm đèn trần bằng pha lê thắp lên ánh vàng dịu nhẹ, trầm lắng cho cả căn phòng, lên từng chiếc bàn ăn và muỗng nĩa khiến mọi thứ trông bóng loáng, xa xỉ một cách không cần thiết.
Tôi ngồi chiếc ghế bên kia Mumei. Nhưng tôi không khai vị bằng món kem lạnh như cô nàng. Thay vào đó, tôi khui bao thuốc lá mới mua hôm qua và làm một điếu, vậy mà chỉ vừa kịp cầm điếu thuốc trên tay thì Mumei đã ngay lập tức chồm người tới ngăn lại.
“Trong đây không được hút thuốc đâu. Anh ráng chờ tới lúc ra ngoài đi.”
“À… xin lỗi, tôi bị quen tay.” Tôi vội cất điếu thuốc vô trong bao.
Theo phản ứng, tôi ngó nghiêng xung quanh kiểm tra, sợ rằng có người khác nhìn thấy, để rồi lại chợt nhận ra, nơi đây thật trống rỗng. Cả gian phòng hoành tráng và rộng lớn như vậy, nhưng không có lấy một bóng người nào khác ngoài tôi và Mumei ở đây, ngay cả đôi uyên ương vừa rồi, hay vị cha xứ, hay cả anh tiếp tân, không một ai. Ánh đèn vàng tỏa ra trông ấm áp nhưng không gian thì thật lạnh lẽo.
“Vậy, cô muốn ăn món chính chưa?” Ngồi một lúc, tôi quyết định hỏi Mumei.
“Tôi còn đang ăn kem.”
“Muốn lấy đồ ăn cho cô, được không?”
“Để xem.”
“Quyết định luôn đi chứ còn xem gì nữa?”
“Nhưng ly kèm còn nhiều, ăn không hết phí chết.”
“Thì chia làm hai, ăn chung. Lo gì, còn không hết thì mình chết chung. ” Tôi cười.
Mumei cũng cười và đá chân tôi phía dưới gầm bàn. Tôi chồm người tới, cắm muỗng mình vào ly kem của cô nàng rồi bắt đầu xới lên, đưa vào miệng. Nó lạnh buốt, nhưng ngọt lịm, ngọt đến ngất ngây đầu lưỡi, ngơ cả người. Ít lâu sau thì ly kem cũng hết sạch, gương mặt Mumei hiện rõ vẻ thỏa mãn, môi cong lên, mắt híp hết lại, và không chỉ dùng ở đó.
“Cảm ơn anh nhiều, vậy phiền anh tiếp nhé.” Cô nàng nháy mắt nói.
“Gì đâu, nhưng mà ăn kem lạnh sáng sớm dễ đau bụng lắm đấy nên cô coi chừng.”
“Dạ dày tôi tốt lắm, anh đừng lo.”
“Không có giỡn đâu nha. Mà nếu thế tôi lấy vừa phải thôi nhé, ăn no quá tí đi đường lại khó chịu bụng.”
“Thật chứ ai giỡn chi đâu, anh cứ lấy hết đi, dạ dày tôi thế nào tôi hiểu mà, nó không đáy đó.”
“Rồi, cũng được, vậy cô ngồi chờ xíu.” Tôi khẽ đẩy ghế đứng dậy. Mumei nhìn tôi với cặp mắt kỳ lạ chưa từng thấy. Đúng hơn thì tôi cũng chẳng biết liệu cô nàng có phải là đang nhìn mình không, hay là đang lắng nghe sự mời gọi từ mùi thơm của những món ăn ở quầy buffet đằng xa mà miệng bắt đầu nhiễu dãi, thèm thuồng. Tôi nhún vai, bước ra quầy đồ ăn.
May thay, tuy nhà hàng đã mở cửa từ hơn một tiếng trước nhưng mọi thứ vẫn còn nóng hổi như vừa mới ra lò, nhất là món đặc sản lưỡi bò mà Mumei rất thích. Tôi lấy dĩa, đảo một vòng dọc quầy buffet, chân bước trên sàn đá cẩm thạch sáng bóng không phát ra chút tiếng động. Những chùm đèn ở xa, phả xuống mặt sàn khiến nó trông như một tấm gương lớn, phản chiếu lại hình ảnh hoang vu, lạnh lẽo của căn phòng. Tuy nhiên, riêng chỉ góc bàn nơi Mumei đang ngồi thì lại tối sầm, mờ nhạt vì thiếu đi ánh đèn vàng, vậy mà cô nàng vẫn hiện lên thật nổi bật trong mắt tôi, tinh khiết và sống động đến lạ thường. Nó chợt gợi tôi nhớ tới bức tranh nổi tiếng của John Singer Sargent - The Breakfast Table ghi lại hình ảnh một người phụ nữ đang ăn sáng, đắm chìm trong suy nghĩ của mình, bao quanh bởi ánh ban mai thơ mộng. Cái miệng nhỏ nhắn dễ thương và đôi môi đỏ mọng ấy thật quyến rũ. Có điều, Mumei còn đẹp hơn thế nữa.
Tôi nhìn tới một khay đồ ăn nằm lẻ loi trong góc, dưới ánh đèn vàng ấm áp rọi xuống làm cái màu đỏ hồng đặc trưng giòn rụm của món lưỡi bò nướng như bật sáng lên, những miếng thịt nóng hổi quặn lại vừa đủ. Tôi gắp chúng lên dĩa rồi chuyển sự chú ý tới các món khác. Từng khay thức ăn trông thật đẹp mắt, không thưa mà cũng không quá ít, nhom chỉ vừa đủ cho hai người. Màu sắc hòa quyện rất dễ nhìn, tuy thiếu đi những điểm nhấn sặc sỡ của các món bánh kem tráng miệng nhưng như vậy thì cũng đã quá xa hoa rồi.
Một hồi chuẩn bị xong, tôi đi lại bàn rồi cẩn thận đặt dĩa đồ ăn lên trước mặt Mumei.
“Đây, mời quý cô thưởng thức. Còn nóng nên cẩn thận đấy.”
“Cảm ơn anh.” Cô ấy cười.
“Nụ cười rạng rỡ của quý cô là phần thưởng đáng giá nhất với tôi rồi.” Tôi khép tay trước ngực, cúi người. “Chỉ cần quý cô đây vui là được.”
“Tên đểu cáng.” Mumei cười e thẹn. Mặt cô nàng có chút ửng đỏ. “Anh ngồi xuống ăn chung đi.”
“Dĩ nhiên rồi, tôi đói meo từ sáng giờ.”
Cả hai cười ầm. Tôi khẽ kéo ghế ra rồi ngồi vào, chắp tay cảm ơn vì bữa sáng, sau đó chia ra mỗi người một dĩa ngập tràn thức ăn. Tôi gắp thử món thịt hun khói và bánh mì nướng cho vào miệng nhai nhóp nhép, tiếp tới lại ngấu nghiến món lưỡi bò nướng đặc sản của Sendai và cá thu chiên. Mumei thì ăn uống từ tốn hơn, điệu đàng và thục nữ. Đồ ăn ngon, ấm bụng, thơm phức mùi vị hoài niệm, mang tới cảm giác hiếu khách, ấm cúng đúng như cái tên gọi của nhà hàng Escale. Trong lúc ăn, Mumei có giải thích ý nghĩa của nó trong tiếng Pháp cho tôi, rằng cô ấy nghe được từ cha mình trong chuyến đi lần trước, cũng đã một thời gian rất lâu rồi. Escale, hay còn có nghĩa là “điểm dừng chân”. Quả thật, tôi chỉ muốn dừng luôn ở đây và chẳng đi đâu nữa. Nhưng sau cùng thì, điểm dừng chân vẫn chỉ nên là điểm dừng chân, dù nó có thoải mái hay mời gọi đến cỡ nào. Tôi đoán Mumei có lẽ cũng có cùng một cảm xúc như vậy.
“Trước đây, cha mẹ tôi từng tổ chức lễ cưới ở lễ đường này. Nhà hàng lúc đó đông đúc và sống động lắm, trong bức hình họ chụp lại tôi thấy cũng không khác gì mấy với bây giờ. Ý tôi là trang trí ấy.” Đôi mắt cô nàng tỏa sáng long lanh khi kể về những kỷ niệm của cha mẹ mình. “Còn nhà anh thì sao?”
“Cha mẹ tôi mất sớm nên tôi cũng không nghe gì nhiều về họ cả, cũng chẳng nhớ được gì nhiều. Trước tôi có kiếm được quyển album ảnh cưới cất trong nhà kho của nhà ngoại, nhưng nó bẩn quá, cũng chưa có dịp coi thử bên trong có gì.”
“Nếu được, anh có muốn trở về lại thời khắc đó không?”
“Quá khứ à, quá khứ của những năm tháng đó đã qua rồi. Bây giờ không còn về được nữa.”
“Vậy… Anh có thấy tiếc không?”
“Tiếc gì cơ?”
“Những ngày tháng lúc trước á.”
“Không, cũng không hẳn.”
“Tại sao vậy? Anh không hối hận điều gì à?”
“Không,” tôi nghiến răng cười. “Có phải tại vì chúng ta đều đã lớn rồi chăng?”
“Không phải đâu, anh đừng nghĩ như vậy.” Giọng Mumei rưng rứng.
Tự nhiên tôi thấy có chút ngậm ngùi, có chút bồi hồi chèn nén lồng ngực mình vì lời nói dối tỉnh rụi ấy. Đã mấy mùa xuân trôi qua nhưng tôi vẫn không thể nào quên được. Nhiều lúc cái ký ức đó bất chợt hiện lên và ám lấy tôi trong giấc mơ mỗi đêm, có dãy đèn sáng chói như thiêu đốt hai hốc mắt, có hàng khán giả bên dưới vỗ tay đôm đốp, có lũ giám khảo khó tính với nụ cười lạnh băng trên những gương mặt vô hồn của chúng, có bầu không khí nặng nề và “hắn”. Ngay lập tức, ánh đèn vụt tắt, chàng pháo tay im bặt, bầu không khí trở lạnh, tấm rèm sân khấu đóng lại trước mắt tôi, mọi thứ dần sụp đổ ngay dưới chân. Tôi nhìn thấy cuộc đời mình thoáng qua trước mắt, như tia nắng chiều lẻ loi đâm xuyên khe lá vàng khô và lụi tàn đi. Tiếng hò reo nghe thật xa xôi trên khán đài vắng. Khi quá khứ đã qua đi là những ngày tháng không thể kéo lại. Bây giờ dù đã lớn, dù đã không còn vẽ vời nữa, nhưng tôi vẫn không thể chạy thoát khỏi quá khứ của chính mình.
Tôi buồn quá.
“Tôi có cái này cũng thú vị lắm nè… Nó giòn giòn, nhỏ nhỏ mà xốp xốp, ngọt cay đủ vị luôn. Anh đưa chén đây tôi gắp cho.”
“Ý cô là cái món trứng muối à? Món đó quê tôi có đầy.”
“Chứ ở đây là quê ai?”
“Chắc là quê của anh tiếp tân.” Câu hỏi của Mumei làm tôi tức cười.
“Không, của những người đi tìm hạnh phúc.”
Cô nàng lại một lần nữa khiến tôi rộn ràng bởi câu nói. Tôi nghe tiếng hát từ trong những nhịp tim đập thình thịch. Giọng Mumei ngân nga một giai điệu thật vui và nhí nhảnh. Không cỗ máy thời gian nào có thể đưa tôi trở lại quá khứ cả. Trước mặt tôi chỉ còn lại mùi thơm nồng, béo bở của món lưỡi bò, vị tươi sống cay ngọt của trứng cá muối và sự thân tình của những kẻ đi tìm hạnh phúc.
Cũng đã một lúc lâu từ khi bọn tôi bước vào nhà hàng, nhưng mãi vẫn chỉ có hai người chiếm gọn chiếc bàn ăn nằm lẻ loi trong một góc phòng. Xung quanh không có lấy một bóng người. Trong cái không gian rộng lớn ấy, tự nhiên rồi ánh nhìn của tôi với Mumei cũng bắt gặp nhau, tôi chợt thấu hiểu được ý nghĩa của Escale - điểm dừng chân của những ký ức sẽ mãi được lưu lại dù cho chúng tôi có biến mất vào một ngày không xa. Trên những vách tường cổ kính, dưới ánh đèn vàng dịu dàng phảng phất cái nét xa hoa, len lỏi qua đôi mắt long lanh màu ngọc bích kia, mọi thứ sẽ được ghi lại, cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Món ăn chính trên dĩa vừa sạch bóng thì chúng tôi lại chuyển qua tới tráng miệng, gồm những thứ bánh ngọt, trái cây và nước ép. Nó còn vượt xa cả sự kỳ vọng, đồ tráng miệng thậm chí còn ngon hơn những món chính. Nhà hàng này có lẽ là ngon nhất Sendai hay ngon nhất đối với chúng tôi cũng không ngoa.
“Vậy cô muốn ăn gì trước giờ?”
“Như thường lệ thôi.” Cô nàng khẽ cười.
“Nghĩa là sao?”
“Từ khai vị tới tráng miệng ấy.”
“Nghe cái người ăn tráng miệng bằng kem lạnh trước cả khi ăn món chính kìa.” Tôi lắc đầu cười.
“Ơ, tại, tự dưng người ta thèm thôi chứ bộ.” Mumei đỏ mặt đáp lại.
“Thế mà tối qua cô còn bày đặt sợ lên ký cơ.”
“Sợ thì sợ thôi chứ, ba cái đồ ngọt này sao mà tôi lên ký được.”
“Muốn biết có lên ký hay không thì cô đưa tay đây đi tôi chỉ cho.”
Mumei nghi ngờ những vẫn ngó tôi, xòe bàn tay của mình ra. Tôi đặt bàn tay của mình vào đó. Cô nàng hốt hoảng, rụt tay về.
“Tự dưng cái gì thế?” Mumei kêu lên.
“Cho cô biết đồ ngọt nó làm lên ký như thế nào.”
“Lãng òm, anh dị ghê.” Mặt cô nàng đỏ lên, tôi ngồi cười khúc khích.
“Mà anh còn ăn được nhiều không?”
“Ít nhất phải ba dĩa như vậy.”
“Rồi, vậy nhường anh lại hết nhé.”
Tôi cuống cuồng lên.
“Thôi, nói đùa thôi. Làm vậy căng bụng chết mất.” Tôi khua tay từ chối.
“Không sao, mình có hai người mà, lo gì. Không ấy thì chết chung.”
Nụ cười hóm hỉnh của Mumei làm tôi chột dạ. Một dĩa bánh flan mọng nước, ngọt ngào được chuyền từ tay cô ấy qua tôi.
“Nay… cô lên mặt dữ thật.”
Rồi bữa ăn sáng kết thúc với những tràng cười và hai cái bụng no căng. Tôi dồn hết đống chén dĩa dơ vào một chồng, đẩy ra góc bàn. Bọn tôi ngồi nghỉ ngơi nói chuyện trước khi quay về lại phòng.
“Thế hôm nay cô tính kế hoạch như nào?”
“Tùy tài xế.”
“Vậy là đi thẳng một mạch tới Aomori rồi ngủ phải không?” Tôi thêm vào.
“Biết kiểu gì anh cũng bảo vậy, thôi để tôi lên kế hoạch. Đàn ông các anh toàn như vậy không nhỉ? Miệng thì kêu thích phiêu lưu, mà lúc nào cũng lười.” Mumei khẽ lắc đầu.
“Tôi bảo chỉ thích phiêu lưu nếu nó quyến rũ và thơ mộng như cô thôi.”
Mặt cô nàng lại đỏ ửng. Mumei cúi gằm xuống giấu nhẹm đi nét dễ thương hồn nhiên chỉ càng khiến tôi muốn trêu ghẹo cô ấy thêm.
“Anh dị thật. Để tôi lên kế hoạch cho.” Cô nàng đưa tay lên cằm suy nghĩ. “Rồi quyết định rồi, đi đền Zuihoden, sau đó ta ghé hai bảo tàng ở Aomori rồi đi kiếm nhà trọ, được không?
“Ừ, được, nhưng bảo tàng gì?”
“Đến đó anh sẽ biết, tôi nghĩ anh chắc sẽ thích đó.” Mumei trao tôi một cái nháy mắt.
“Cô lại úp mở nữa à…”
“Tưởng anh bảo thích được khám phá phụ nữ bí ẩn mà.”
“Tôi có bảo mình không thích đâu. Tôi chỉ không thích khi cái úp mở đó là về bản thân mình thôi, còn nếu là về một quý cô xinh đẹp như này thì tôi đâu ngán.” Tôi cười.
“Anh lại nữa, tên dẻo miệng.” Mumei khều chân tôi bên dưới bàn ăn. “Thế ngài thi sĩ cho tôi nhờ một chuyện được không?”
“Để xem nó thế nào đã.”
“Cũng không có gì lớn lao lắm đâu, tí anh ghé tiệm mua sắm gần ngôi đền được không, tôi nói anh sau.”
“Rồi, thoải mái đi.”
Tôi đẩy ghế của mình đứng dậy và bước tới kéo ghế cho Mumei, cả hai rời khỏi phòng ăn, cô ấy chậm rãi theo sau tôi tới thang máy để quay về phòng. Trong lúc chờ, tôi nhìn chiếc đồng hồ quả lắc khá to trông có vẻ cũ kỹ ở phía đối diện, bây giờ đã chín giờ hai mươi ba phút. Tôi quay sang nói cho Mumei biết.
“Sao không phải chín giờ hai mươi bốn* phút mà lại là hai mươi ba?” Đột nhiên, cô nàng dửng dưng hỏi.
“Vì con số lẻ may mắn hơn.”
“Ừm… Đúng thật nhỉ…” Mumei dỡ lòng bàn tay phải lên nhưng không nhìn vào. Cô ấy bất giác trút một hơi thở dài. “Số lẻ may mắn hơn thật*...”
“Nhưng cô biết cái gì mà càng chẵn thì lại càng tuyệt vời không?”
“Tôi không biết, cái gì vậy?”
“Những gì mà tràn đầy á, tròn trịa và chẵn chòi, không dư mà cũng không thiếu.”
“Anh đang nói tới cái gì vậy…?”
“Cô đoán thử xem.”
“Hừm…” Cô nàng nghiêng đầu, xoa cằm đăm chiêu suy nghĩ. “Ngực tôi à?”
Tôi hoảng hốt phải vội né mặt đi vì sự bạo dạn của Mumei. Cô ấy không chần chừ mà chỉ thẳng tay vào hai quả bom thịt trước ngực, lộ ra vừa đủ phần da trắng mịn nõn nà căng tròn khiến cơ thể tôi rạo rực đứng ngồi không yên.
“Ý tôi là đôi mắt của cô cơ.” Tôi lập tức đính chính.
Mumei cười phía bên cạnh. Ánh đèn cam chớp nháy, cửa thang máy chậm rãi mở ra. Bọn tôi bước vào trong rồi quay về phòng trên tầng bảy. Những con số màu cam trên bảng điện tử liên tục thay đổi, suốt quãng thời gian chờ, cả hai không ai nói một lời. Mumei “nhìn” chàng trai có mái tóc đen tuyền bên vách, và ngược lại, tôi ngắm nhìn cô nàng có mái tóc bạch kim phía đối diện. Đôi khi tôi lại nghe Mumei thốt ra một, hai tiếng cười khúc khích. Có vẻ cô ấy vẫn còn thấy thích thú với việc trêu ghẹo tôi vừa nãy.
Mumei bỗng ấn ngón tay vào lưng tôi.
“Nói nghe, sao anh lại quyết định đi chung với tôi vậy?”
“Ngẫu hứng, chắc vậy.”
“Anh biết không, tôi sợ lắm, những cuộc vui ấy.”
“Sao thế?”
“Vì cuộc vui nào mà chẳng tàn. Như tiếng chuông chùa Gion vang lên, âm vang của sự vô thường vậy.”
“Thế còn sắc hoa của cây sala kép, biểu lộ lẽ thịnh suy bất thường đâu? Cho đủ nghĩa.” Tôi thầm cười.
“Chọc người ta phải không, đồ khoe mẽ.”
“Triết học Thần Đạo mà, dù tôi cũng không theo đạo nhưng nhà ngoại tôi lúc nào cũng nhồi nhét chúng vô đầu. Mà tóm lại thì, tôi chợt nhận ra được sự phàm tục của thế giới này đến nhường nào khi nhìn thấy cô vào trưa qua. Như thể có gì đó bùng nổ trong tâm trí tôi vậy, chỉ như thế là tôi đã quyết tâm phải xin đi theo cô cho bằng được.”
“Anh… kỳ lạ thật.” Mumei khẽ cười. “Tôi không hiểu nổi anh đang nghĩ gì cả.”
“Làm như tôi thì hiểu được cô đang nghĩ cái gì vậy. Mà không sao, từ giờ cho tới lúc đến hồ Mashu, chúng ta có khối thời gian để tìm hiểu nhau mà.” Tôi giỡn lại, nhưng trước sự ngạc nhiên của bản thân, Mumei không hề cười cho qua. Cô nàng chỉ nhẹ nhàng gật đầu, ý nghĩa của sự thầm lặng nặng nề hơn bất cứ lời nói nào trong khoảnh khắc này.
“Tên đào hoa như anh mà có người yêu chắc sẽ bạc tình lắm.”
“Không bao giờ, tôi rất chung tình đấy nhé, cho tới chết.” Tôi lắc đầu cười.
“Có hơi ngắn không?”
“Ngắn nhiều thì cái tình nó vẫn chung chứ khác gì.”
“Anh dẻo miệng thật.”
“Ăn may thôi.”
“Làm như tôi tin ấy.” Cô nàng thúc vào hông tôi, cười nhỏ.
Ánh đèn cam chớp chớp liên hồi rồi ngưng hẳn lại, cuộc nói chuyện cũng kết thúc. Thang máy dừng ở tầng bảy, cửa mở ra hai bên. Tôi dẫn Mumei về phòng và bắt đầu dọn dẹp, thu xếp đồ đạc hành lý lại. Bọn tôi hẹn nhau ở ngoài hành lang sau tầm ba mươi phút nữa. Rồi đúng ba mươi phút sau, không hơn, không kém, cả hai đã thu dọn xong mọi thứ và chuẩn bị để rời đi. Bây giờ đã gần mười giờ sáng.
Tôi đưa Mumei ra sảnh trước. Cô ấy ngồi chờ ở ghế sofa trong khi tôi thanh toán chi phí phòng với anh tiếp tân tại quầy. Sau một cái đảo mắt nhìn quanh, tôi nhận thấy nơi này cũng vẫn hoang vắng không một bóng người, mọi tiếng động phát ra như thể bị vùi lấp trong sự nguy nga tráng lệ của không gian lạnh lẽo, cổ kính mà u buồn của khách sạn Monterey, ngay cả ánh đèn vàng dịu dàng cũng không khiến nơi đây ấm áp hơn là bao. Sự tương phản giữa ngày và đêm gần như không thể phân biệt được. Điều duy nhất mang tới chút hơi thở của sự sống lúc này có lẽ chính là anh tiếp tân cần mẫn đang đứng trước mặt tôi, những ngón tay gõ phím nhanh nhẹn, thanh thoát, đôi mắt đen bóng lướt lên xuống liên tục không ngừng, giữa màn hình máy tính và tờ biên lai được in ra trên chiếc bàn gỗ làm việc chật chội.
“Của quý khách tổng cộng là 22,000 yên tất cả. Quý khách muốn thanh toán bằng hình thức nào?” Anh tiếp tân ngừng việc gõ máy tính, ngước nhìn tôi điềm đạm hỏi.
“Bằng tiền mặt.” Tôi rút cọc tiền Mumei đưa hôm qua, đếm đủ rồi đặt lên khay.
“Đúng 22,000 yên hiện kim, tôi đã xác nhận đủ, xin cảm ơn quý khách nhiều. Tôi gửi lại biên lai của quý khách, xin nhờ quý khách ký tên vào đây ạ.” Anh tiếp tân đưa tôi tờ giấy vừa in ra trên bàn và một cây bút bi.
“Có cần phải hai người ký không?”
“Dạ không nhất thiết đâu ạ thưa quý khách, chỉ cần một người đại diện ký tên là được rồi.”
“Vậy à.”
Tôi cầm cây bút lên ký vào tờ biên lai, nhưng tay bỗng có chút hoang mang khi nhìn thấy dòng chữ “ghi rõ họ tên” bên dưới. Chiều qua, Mumei cũng đã ký lên tờ biên nhận rút tiền ở trạm dừng chân, không biết liệu cô ấy cũng cảm thấy như vậy không, có rối bời và hoài niệm như tôi ngay lúc này? Tôi thấy mộng mị quá, cái ngày ấy cũng không còn xa nữa, mà tôi và Mumei vẫn còn là những kẻ xa xứ vô danh.
Cô nàng trông hãy còn vô tư lắm. Tôi ngoảnh đầu về sau nhìn trong vô thức. Cô ấy đang ngồi nghịch tóc, sợi tóc mái rũ xuống mắt khiến Mumei có chút khó chịu mà nhăn mặt, thổi thổi nó bay phất lên trông thật ngố tàu.
“Có chuyện gì không ạ, thưa quý khách?”
Giọng anh tiếp tân làm tôi giật mình quay lại tờ giấy trước mắt.
“À không, không có gì, xin lỗi.” Tôi nhanh chóng ký nốt tên rồi gửi lại cho anh tiếp tân.
Anh ấy cầm tờ biên lai lên ngó qua một lần rồi gật đầu và mỉm cười.
“Thủ tục hoàn tất rồi ạ, thưa quý khách. Cảm ơn quý khách vì đã tin tưởng chọn khách sạn Monterey. Quý khách có cần bản copy của biên lai không ạ?”
“À vâng, làm phiền anh.”
“Dạ vâng, của quý khách đây ạ.” Anh tiếp tân vui vẻ cười, trao tôi tờ copy vẫn còn ấm mới được in ra từ máy. “Chúc quý khách mọi sự tốt đẹp nhất, một lần nữa, cảm ơn quý khách nhiều ạ.”
Vừa dứt lời, anh tiếp tân lập tức cúi gập người, vẫn giữ vẻ lịch thiệp và sự chuyên nghiệp trong từng lời nói, từng cử chỉ khiến tôi có chút khó xử. Tôi định quay người rời đi nhưng bất chợt bị thu hút bởi tấm thẻ tên trên túi áo ngực của anh ta nên đã quyết định đứng lại và hỏi chuyện. Tấm thẻ tên không đặc biệt, cũng không thật sự nổi bật, mà ngược lại, nó quá “lạ” so với những cái của nhân viên khác, tấm thẻ của anh tiếp tân hoàn toàn trống rỗng. Tuy chỉ kịp liếc vội qua nhưng tôi biết mình không hề nhìn nhầm.
“Quý khách có cần giúp với vấn đề gì khác không ạ?” Anh tiếp tân hỏi.
“À… không, tôi chỉ đang tự hỏi tại sao bảng tên của anh lại như vậy… Mà nghĩ lại thì… À thôi không có gì đâu.” Tôi vội lắc đầu phủ nhận. “Xin lỗi anh.”
“Nếu là về chuyện đó thì không có gì đâu ạ, quý khách đừng bận tâm. Và như quý khách đã thấy thì bảng tên tôi hoàn toàn trống không như vậy thôi, đúng như điều mà quý khách đang nghĩ tới.”
Anh tiếp tân cúi nhìn tấm bảng tên rồi chậm rãi gỡ nó xuống và đặt lên bàn. Thấy vậy, tôi cũng tiến lại gần để nhìn kỹ một lần nữa. Quả thật, nó hoàn toàn trống lốc, không có một dòng ghi tên hay thậm chí là một tấm ảnh thẻ bên trên.
“Anh… sắp rồi à…?” Tôi ngước nhìn anh ta, ấp úng hỏi.
“Đúng vậy ạ, thưa quý khách.” Khác với tưởng tượng của tôi, anh tiếp tân vẫn vui vẻ đáp lại, vẫn giữ vẻ lịch thiệp, chuyên nghiệp trong từng lời nói và cử chỉ.
“Anh… không còn nhớ tên của mình nữa hả?”
“Vâng ạ, đúng như quý khách nói, tiếc là như vậy.” Anh tiếp tân mỉm cười. “Thời gian của tôi cũng không còn nhiều nữa, hôm nay cũng là ngày cuối rồi. Hơi tiếc thật nhỉ?”
“Chỉ hơi tiếc thôi à? Tôi là anh chắc sẽ không cười nổi như vậy được.”
“Tôi nghĩ mỗi người đều có một cách nhìn về giá trị của sự sống khác nhau, điều đó mới làm nên con người. Mỗi cá thể đặc biệt theo một cách riêng, tôi tin vậy, rằng Chúa tạo ra chúng ta không ai phải giống ai, kể cả trong suy nghĩ và nhận thức.”
“V-vậy à… Tôi không rành lắm về đạo Chúa, nhưng anh có phiền nếu tôi hỏi tại sao anh vẫn còn đi làm không, nay là ngày cuối của anh mà nhỉ? Rồi còn gia đình anh thì sao?”
Anh tiếp tân đột nhiên bật cười khúc khích trước câu hỏi của tôi. Anh ấy lấy tay che miệng cố gắng không phát ra tiếng ồn quá to như thể sợ rằng sự yên tĩnh uy nghiêm đang ngủ quên của sảnh chính sẽ bị đánh thức, hai vai anh ta khẽ run.
“X-xin lỗi quý khách…” Anh tiếp tân vẫn bụm miệng, cố gắng kìm lại cơn buồn cười. “Thú thật thì, cả tôi cũng chẳng biết nữa. Chẳng biết liệu mình có gia đình hay không nữa, nhưng nó có vẻ khá mỉa mai khi tự dưng quý khách nhắc tới. Ngay cả khi tôi không còn nhớ được nổi tên của chính mình, nhưng bằng cách nào đó mà điều duy nhất còn lại trong tâm trí tôi lại là cái công việc ở quầy lễ tân của khách sạn này. Buồn cười thật, tôi thậm chí còn chẳng nhớ nổi tại sao mình lại muốn đi làm tới vậy, dành những ngày cuối cùng ở cái khách sạn mà bản thân không có một chút ký ức nào về… Quý khách có nghĩ Chúa đôi khi cũng thật lơ đễnh không?”
“H-hah…ahahha!” Tôi bật cười thành tiếng. “Đồng quan điểm, tôi cũng nghĩ Chúa và các vị thần đôi khi thật lơ đễnh.”
“Tôi mừng là quý khách thấy nó hài hước.”
Tông giọng của anh tiếp tân trở về lại chế độ làm việc ngay lập tức, như thể có một cái công tắc bật lên bật xuống. Anh ấy không cười nữa, nhưng gương mặt vẫn toát ra sự thân thiện mến khách, dù cả bản thân anh ta có lẽ cũng chẳng hiểu được vì sao lại vậy. Có thể tất cả chúng tôi đều là những kẻ xa xứ vô danh đi tìm hạnh phúc cho chính mình.
“À, tiện đây tôi nên gọi anh là gì nhỉ? Dù có lẽ chắc sẽ không bao giờ có dịp gặp lại nữa nên cũng có hơi vô nghĩa… Mà ngẫm lại thì nó vô nghĩa thật, thôi không có gì đâu.” Tôi lắc đầu cười.
“Xin mạn phép được nói ra ý kiến cá nhân, nhưng tôi thì nghĩ nó không hẳn là vô nghĩa đâu ạ. Dù sao thì cũng sẽ khá tiếc nếu không ai nhớ được tới được bản thân mình sau khi biến mất phải không, kể cả tôi cũng vậy, tôi cũng là người cuối cùng rồi. Thế nên, nếu được…” Anh tiếp tân chợt khựng lại. Anh ấy nhìn tôi với nụ cười mỉm trên môi, nhưng đôi mắt lại trĩu xuống thật nặng nề. “Anh có thể gọi tôi là John được không?”
“Tôi… Ừ…” Tuy có chút lưỡng lự nhưng rồi tôi cũng đi đến quyết định. “Vậy John, hân hạnh được làm quen với anh.”
Tôi khẽ gật đầu nhìn anh ta. John cũng nhìn tôi, lần này với sự niềm nở hiện rõ trên khuôn mặt.
“Tôi cũng vậy, hân hạnh được làm quen. Nhưng nếu không phiền, tôi có thể mạn phép hỏi tên của quý khách được không?”
“Yo-... À không, tôi là Sora.”
John chỉ khẽ gật đầu, anh ấy không hỏi gì thêm. Tôi chào tạm biệt rồi quay người rời đi, cuộc nói chuyện ngắn ngủi cũng kết thúc ở đó. Hoặc đáng lẽ là như vậy, nhưng một lần nữa tôi bỗng khựng lại. Từ sau lưng, John cất tiếng.
“Xin lỗi anh, Sora. Tôi có thể hỏi anh một ân huệ được không?” Anh ta vội vã chạy theo tôi từ phía quầy tiếp tân.
“Có chuyện gì à?”
“Tôi biết nó có hơi đột ngột… nhưng… tôi không biết có thể nhờ anh mang tấm bảng tên này được không?”
“Tấm bảng tên á?” Tôi há mồm nhìn anh tiếp tân.
“Vâng, tấm bảng tên ạ, nếu anh không phiền. Thật ra, tôi có nghe từ quý cô bạn đồng hành của anh, cả hai sẽ đi tới Hokkaido thì phải. Trên đường đi, nếu thuận tiện, không biết anh có thể vứt nó xuống biển giúp tôi được không?”
Giờ thì miệng tôi còn há rộng hơn, tưởng chừng như quai hàm chỉ một xíu nữa là bị trật luôn.
“A-anh… muốn tôi vứt nó xuống biển á?!”
“Dạ vâng, nếu anh không phiền.” John đáp lại tỉnh rụi.
“À thì… tôi không phiền, nhưng mà… tôi có thể hỏi tại sao không?”
“Tôi cũng không rõ nữa. Chỉ là tự dưng, tôi nghĩ mình cũng muốn được phiêu lưu. Để xem đại dương sẽ đưa tôi đến tận góc nào của chân trời.” Anh tiếp tân khẽ cười và đưa tấm bảng tên trên tay cho tôi.
Dù chỉ là một cái bảng tên trống không nhưng John dường như vẫn không nỡ để rời xa nó. Tôi xòe tay ra, anh ta có chút lưỡng lự và rồi cũng quyết định đặt nó vào tay tôi. Bàn tay của John có hơi run khi tôi vô tình chạm phải, nó run và lạnh.
“Vậy xin nhờ anh nhé, anh Sora. Cảm ơn anh rất nhiều. Tôi không có gì để có thể đền đáp lại được cho anh ngoài lời cầu nguyện tới Chúa. Tôi mong rằng anh và người bạn đồng hành của mình sẽ đều tìm được hạnh phúc. Tôi mong Chúa sẽ ban phước lên chuyến đi của cả hai, để dù có qua những thăng trầm, cả hai sẽ nhận ra những giá trị mới trong đời mình. Hãy mở rộng con tim và sự thay đổi sẽ đến, nhân danh đức Cha, Con và Thánh Thần. Amen.” John cúi đầu làm dấu rồi ngước lên nhìn tôi. “Chúc cả hai một chuyến đi bình an. Tạm biệt.”
Dứt lời, John mỉm cười và quay người đi về phía quầy tiếp tân, tiếp tục công việc của một nhân viên khách sạn như thường lệ. Tôi nhìn bóng lưng nhỏ bé của anh ta mà không khỏi cảm thấy bồi hồi. Sự hiện diện của John trông thật mong manh, nhưng cũng vào những giờ phút cuối cùng này, nó cũng thật rực sáng hơn tất thảy. Tôi nắm chặt cái bảng tên trong tay, lo sợ sẽ làm rớt vì sức nặng của nó đang dần đè lên tâm trí.
“Này, gửi lời chúc mừng của tôi tới họ dùm nhé, nếu anh có gặp họ.” Tôi hét lên về phía John.
Không có hồi âm, chỉ có một nụ cười lịch thiệp, cái gật đầu nhẹ nhàng, và những hạt bụi đang tan biến vào hư vô, như vừa có ai đó hiện diện ở đây. Giờ thì, không còn gì nữa. Tôi cười thầm và quay người bước đi về phía sofa nơi Mumei đang ngồi, bỏ lại sau lưng khách sạn Monterey nguy nga tráng lệ và những con người xa xứ vô danh.
Tạm biệt.
“Anh xong rồi hả?” Mumei đeo balo lên khi tôi bước lại gần rồi đứng dậy khỏi sofa.
“Ừ, xin lỗi cô, có hơi lâu một chút.”
“Không có gì, anh giải quyết xong ổn thỏa rồi chứ?”
“Giải quyết… cái gì?” Tôi khẽ cười. “Đi thôi, tới giờ rồi.”
Cả hai lẳng lặng rời đi qua cánh cửa chính bằng gỗ, cỗ kính và hoành tráng của khách sạn Monterey. Tôi dìu Mumei băng qua đường sang phía đối diện nơi chiếc Camry đang đậu. Như thường lệ, tôi mở cửa cho cô nàng rồi cất hết hành lý vào băng ghế khách. Sau khi hoàn tất kiểm tra nhiên liệu và động cơ xe thì chúng tôi cũng chuẩn bị rời khỏi đây để tiếp tục cuộc hành trình còn đang dở.
Chiếc Camry nhẹ nhàng lăn bánh trên con đường nhựa buồn bã của khu phố mua sắm. Tôi đã có chút ngán ngẫm hơi máy lạnh nên quyết định kéo cửa kính xuống, chờ một cơn gió xuân mát mẻ và tươi mới thoáng qua, làm dịu đi cái mùi nhựa xe đang bám lại bên trong. Thời tiết vẫn còn hơi ẩm sau cơn mưa rào, với một sáng cuối xuân thì không khí lúc này có vẻ hơi se lạnh. Tôi nhìn màn hình xe kiểm tra giờ, đang cao điểm mà trông không khác gì lúc chúng tôi mới tới đây vào tối qua. Ở hai bên vỉa hè đôi khi thấp thoáng một, hai bóng người lẻ loi bước đi, lạnh lùng và vô hồn như những hình nhân, những tòa kiến trúc đồ sộ tối đèn, thiếu sức sống, những chiếc xe hơi đã xuống cấp đậu ngã nghiêng dọc đường, và chuyến tàu chở hàng đã không còn hoạt động nữa. Sự tĩnh lặng là tất cả những gì tôi thấy, là tất cả những gì Sendai có vào lúc này, lạnh lẽo, yên bình và cũ kỹ gợi tới một cảm giác hoang tàn và lạc lõng.
Trong xe, đài phát thanh buổi sáng đang chạy những bài J-pop nổi tiếng gần đây. Mặc dù nói là gần đây nhưng bài mới nhất cũng phải từ khoảng hai tháng trước đó. Tôi chỉnh âm lượng lớn một chút khi bài “Sayonara, Mata Itsuka!” của Kenshi Yonezu phát lên, giai điệu nhí nhảnh của nó khiến buổi sáng có chút ảm đạm như trở nên màu nhiệm hơn. Tôi tự hỏi lúc này những người đã biến mất liệu có nghe được lời chào tạm biệt vừa nãy không? Dường như tôi đã quên đi một thứ gì đó, một ai đó. Cái bảng tên này là của ai? Tôi không rõ, chỉ biết rằng mình có một lời hứa cần phải thực hiện.
“Liệu bạn có nhớ tới tôi sau 100 năm nữa không? Ai mà quan tâm? Tạm biệt và hẹn gặp lại!”
Tôi ngạc nhiên quay sang nhìn Mumei đang ngồi bên ghế phụ. Cô nàng đăm chiêu “nhìn” ra cửa sổ, vào khung cảnh buồn tẻ bên ngoài và cất tiếng hát theo bài nhạc. Giọng nữ cao thánh thót và sống động đầy mê ly.
“La la la… Xa hơn cả nơi họ gọi là địa ngục, nơi đó tôi nhìn thấy mùa xuân.”
“Cô có vẻ thích nó nhỉ?” Tôi cười hỏi.
“Anh cũng vậy còn gì.” Mumei quay người lại về phía tôi, mỉm cười đáp lại. Cô nàng vẫn nhún nhảy theo điệu nhạc thật nhí nhảnh và dễ thương.
Tôi cười, Mumei cũng cười. Bài hát vẫn tiếp tục chạy trên đài phát thanh.
“Cô có lạnh không?”
“Không.”
“Tưởng cô cũng nên mặc ít áo ấm lên. Gió bên ngoài thổi mạnh, vừa có mưa hôm qua nên cũng lạnh lắm đấy.”
“Không ăn nhằm gì, mặc áo ấm mùa này người ta lại cười cho.”
“Người ta nào? Giờ chỉ có tôi và cô thôi chứ còn ai?”
Mumei bỗng ngó tôi cười.
“Hay anh lại thấy không ổn khi nhìn cơ thể tôi?”
“Tí hồi mà lạnh thì đừng có than với tôi.” Biết cô nàng trêu, tôi vẫn tỉnh nói.
“Cơ mà cũng hơi lạnh thật nhỉ…?”
Người cô ấy khẽ run lên khi tôi liếc nhìn, hai tay ôm lấy bờ vai thon thả đầy quyến rũ dưới lớp váy xám tro. Bỗng tôi cảm thấy cơ thể có hơi rạo rực, nhiệt độ như vừa tăng lên.
“Đã bảo rồi.” Tôi thở dài và bật máy sưởi lên mức nhỏ, đóng cửa kính xe hai bên. Mùi nhựa xe cũng không còn nữa. “Đỡ hơn chưa?”
“Ừm.” Cô nàng vui vẻ gật đầu.
Tôi thấy ấm và chợt có chút khó hiểu, gáy cổ đổ mồ hôi lạnh. Mumei vươn tay vặn nhỏ âm lượng của đài phát thanh xuống, bài “Sayonara, Mata Itsuka!” vẫn đang chạy. Cô nàng không nhún nhảy ca hát nữa mà nghiêng đầu nhìn tôi với vẻ tò mò.
“Anh tiếp tân nhờ anh việc gì hả?”
“Anh tiếp tân? Ai cơ?” Tôi ngạc nhiên đáp lại.
“À… Không, không có gì đâu.” Mumei cười giỡn.
“Ý cô là sao?”
“Cái bảng tên đó, anh không nhớ nó thuộc về ai hả?”
“B-bảng tên…” Đầu tôi như có một cơn bão đi ngang qua, lốc xoáy như khuấy đảo những hình ảnh mờ nhạt, xua tan nó đi. Tôi nghe có tiếng gọi, những giọng nói mơ hồ không rõ nguồn gốc đang với tới mình. “Hình như… T-tôi… không… không nhớ được. Có người đã nhờ tôi, người đó nhờ tôi… vứt tấm bảng tên này xuống biển.”
“John” Mắt cô nàng mở to ngơ ngác “nhìn” tôi. “Là tên của anh tiếp tân. Anh nhớ không?”
“J..John?” Tôi trả lời gượng gạo. “Là người nhờ tôi việc này? Sao cô biết?”
“Tôi làm sao biết. Anh mới là người biết chứ.” Mumei mỉm cười tỏ vẻ quan tâm và có chút hứng thú với câu chuyện. Nhưng tiếc rằng nó cũng không có gì sâu xa, ít nhất là những gì mà cô nàng đang mong đợi. “Anh kể đi tôi nghe đi.”
“T-tôi không… chắc… Nhưng người đó, hình như bảo gì đó về việc mình là người cuối cùng, và như những người khác… người đó mong mình sẽ được nhớ tới sau khi biến mất.”
“Vậy nên anh ấy chọn cái tên John? Ra là vậy…” Cô ấy gật đầu tỏ ý đã hiểu điều gì đó. “Tông đồ cuối cùng sao...”
“Tông đồ cuối cùng?”
“Ư- ưm… không có gì. Anh có nhớ được gì nữa không?”
“Không… xin lỗi cô.” Tôi đáp.
Bỗng Mumei lắc đầu nhẹ, một nụ cười nở trên môi nhưng đôi mắt cô ấy có chút đượm buồn, khóe mi kéo dài như có áng mây trắng cô đơn rủ xuống trước mặt. Cô nàng đột nhiên quay người xuống ghế sau, tôi nghe những tiếng rục rịch như đang lục lọi gì đó trong đống hành lý. Một lúc thì Mumei ngồi ngay lại với một quyển sách trên tay, trông nó khá cũ kỹ và có hơi tàn tạ. Cái bìa da nâu đậm không có lấy một dòng chữ ghi tựa đề của quyển sách, thay vào đó là những cái chấm tròn nhỏ nhỏ nằm bên trên được rãi đều. Tôi nhận ra liền ngay khi Mumei đưa tay lên chậm rãi chạm vào những đốm nhỏ đó. Cô nàng rà tay qua một lần rồi từ tốn lật những trang sách trắng đã ngả màu ra, một chốc thì Mumei dừng lại.
“Trong Ecclesiastes 3:20 nói: Tất cả đều sẽ trở về cùng một cõi, tất cả đều từ cát bụi mà ra, và cũng sẽ với cát bụi mà trở về.”
“Kinh thánh?” Tôi hỏi.
“Ừm, bản Braille.” Mumei giải thích dõng dạc. “John là một trong mười hai tông đồ của Chúa Jesus, cũng là người cuối cùng ra đi trong số những người anh em của mình. Và đặc biệt, ông ra đi rất thanh thản vì tuổi già. Chỉ vậy thôi.”
“Thế những người khác ra đi vì cái gì?”
“Vì tình yêu.” Cô nàng cười.
“Cô giỡn mặt tôi à…”
“Ừ, giỡn đó. Mà tôi đoán là John có nghĩa như vậy nhỉ?”
“Tôi không biết, nhưng tôi biết người đó đã cười… tôi nhớ vậy.”
“Tro về thành tro, cát bụi về với cát bụi. Anh nghĩ John sẽ về tới đâu ha?” Cô nàng nghiêng đầu nhìn tôi với vẻ tò mò.
“Chắc là về với Chúa?” Tôi đoán mò.
“Tôi thì nghĩ là về với những ngôi sao. Chúng ta từ bụi sao mà ra, và sẽ với bụi sao chúng ta trở về. Tôi nghĩ anh John cũng vậy. Và cả chúng ta cũng sẽ vậy.”
“Tôi tưởng cô theo đạo?”
“Đâu ai cấm tôi không được lãng mạn.” Mumei phồng má. “Mà anh nghĩ 100 năm nữa có ai nhớ tới chúng ta không?”
“Nếu 100 nữa mà con người còn tồn tại thì ừ… Chắc họ sẽ thấy chúng ta trong những vì sao trên bầu trời đêm.” Tôi cười.
“Anh cũng lãng mạn vậy còn gì.” Cô nàng thúc vào vai tôi. “Tới lúc đó… Hẹn gặp lại bạn sau 100 năm, đừng biến mất nhé. Tạm biệt và hẹn gặp lại!”
Tôi đang lắng nghe một đoạn nhạc, vẫn là bài “Sayonara, Mata Itsuka!” nhí nhảnh và nhộn nhịp. Nhạc trên đài phát thanh thì không có chọn lọc, có những bản hay xen vào đó có những bản không được hợp gu. Tôi thích nghe nhạc ở nhà, trong phòng ngủ một mình về đêm khuya và tắt hết đèn. Nghe nhạc trên xe không hẳn là không thú vị. Nhưng tôi vừa nghe được một đoạn nhạc hay - lời bài hát mà Mumei vừa cất lên. Biết đâu, chúng tôi sẽ lại gặp nhau dù là một trăm hay một nghìn năm về sau, ở nơi chốn xa xôi mà họ gọi là địa ngục, ở đó, chúng tôi sẽ tìm thấy mùa xuân.
Thành phố u buồn chán nản cứ thế vụt qua tầm mắt tôi. Trên trời, những áng mây thưa thớt chẻ dọc hai bên, vẽ nên một đoạn thiên lộ trước mặt. Bên dưới, chiếc xe vẫn đang lăn bánh đều đều trên con đường nhựa, gần ra khỏi trung tâm thành phố nên khung cảnh cũng bắt đầu thoáng đãng hơn. Tôi đạp mạnh ga, vặn âm lượng đài phát thanh lên và hướng tới địa điểm tiếp theo - đền Zuihoden và thành phố Aomori.
Trong lòng tôi dù vậy vẫn mang nhiều cảm xúc bồi hồi, hoài niệm và nghi hoặc. Chúng dồn nén thật khó tả, như một cơn bão cuốn trôi đi mọi thứ trong tâm trí. Từ giờ, tôi chỉ có thể tiến về phía trước và bỏ lại những gì ở sau mình. Nhưng liệu như vậy có đúng lẽ? Tôi không thể biết được câu trả lời, nhưng vì lý do nào đó, bản thân tôi tin rằng Mumei sẽ biết. Cô gái khiếm thị đó dường như có thể “nhìn” thấy xa hơn những gì tôi thấy được. Mumei đang che giấu điều gì đó.
0 Bình luận