TÍCH... TẮC... TÍCH... TẮC... TÍCH... TẮC...
Đó đã từng là thứ âm thanh duy nhất tôi nghe được trong căn phòng ủ dột và trầm thấp ở ngoại ô Harendell, nằm cuối đường Belfton; và giờ chính nó, một lần nữa trở thành thứ âm thanh duy nhất mà tôi nghe được, trong ngôi nhà của mình, trong căn phòng ngủ đã đột ngột trở nên ẩm mốc, trước khi chính tôi cũng trở thành nạn nhân xấu số trong một âm mưu cổ xưa và khủng khiếp đã vượt xa khỏi mọi trí tưởng tượng trần tục, hệt như người bạn Stanley Houston quá cố của tôi trước đó!
...
Kim đồng hồ vượt quá nửa đêm và những ồn ào đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh mịch của tiếng nói. Bên ngoài, gió vẫn rít từng cơn qua những con phố hẹp của Harendell, luồn qua từng hàng cây trơ trọi như những bộ xương ác độc vươn lên giữa màn đêm gầm thét trước một cơn bão sắp tới. Và trong sự tra tấn dai dẳng của tâm trí, thính lực của tôi dường như đã trở nên vượt trội, đến mức tôi thậm chí có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng va đập khe khẽ của hai hoặc ba cánh cửa sổ chưa đóng kỹ bị gió lay động đâu đó trên con đường hoang vắng này. Nhưng giữa nơi bóng tối hoang dại đã vùng lên và ngự trị, tất cả những âm thanh đó như thể bị nhấn chìm bởi một thứ gì đó lớn lao hơn, khó lường hơn, một sự im ắng dày đặc và nặng nề đền tột bậc đè thẳng xuống lồng ngực tôi, khiến hơi thở của tôi từng chút một trở nên khó nhọc, đau đớn và quằn quại vô cùng.
Giống như ngày hôm qua, và cũng giống như buổi tối hôm kia, tôi nằm bất động trên chiếc giường gỗ cũ kỹ có lưng dựa vào vách tường lạnh lẽo; đôi mắt tôi dán chặt vào chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường suốt hàng giờ liền và đôi môi tôi run cầm cập đang thì thầm một thứ ngôn ngữ không biết. Có một ý nghĩ vẫn quanh quẩn trong tâm trí tôi, rằng những con số La Mã đã mờ nhạt trên mặt đồng hồ kia đang mỉm cười chế nhạo tấm thân héo mòn này trong những giai điệu có tính chu kỳ một cách đáng sợ của chúng, như thể chúng biết rõ số phận tôi đã được định đoạt theo một chiều hướng mà tôi không hề mong muốn. Nhưng... nếu như không phải chúng đang mỉm cười, vậy thì chính sự vô tâm hết sức tất nhiên ấy cũng khiến tôi muốn gào thét, muốn trốn tránh, muốn điên dại lên!
Bàn tay tôi run rẩy siết chặt chai rượu vang đã uống cạn từ lâu, mùi cồn nồng nặc khắp căn phòng xộc thẳng vào mũi tôi, thứ đáng lẽ ra sẽ khiến tôi phải như mê dại – nhưng chúng không hề làm dịu đi những cảm giác rợn ngợp trong lồng ngực tôi dù chỉ một chút. Tôi đã uống nhiều đến mức nào? Tôi không biết nữa. Một chai? Hai chai? Có lẽ nhiều hơn. Khi hết rượu, tôi đã chuyển sang dùng những miếng dán nicotine và xylazine với mong muốn có thể phần nào được an ổn khỏi những cơn căng thẳng. Nhưng một lần nữa, nỗi hoảng sợ vẫn chưa buông tha tôi, những suy nghĩ báng bổ vẫn tiếp tục gào thét trong đầu tôi, và mỗi khi tôi nhắm mắt, tôi lại nhìn thấy những cảnh tượng kinh hoàng mà tôi không dám tin là thật.
Không lâu trước đây, tôi hãy còn là một con người hoàn toàn khác, vẫn là vị Giáo sư khoa khảo cổ - Dahli Mortensense của Đại học Rovenwood, một nhà khảo cổ học và sử học có chút tiếng nói trong giới học thuật, phần nào nổi tiếng với những chuyến thám hiểm đến rừng Amazon và có nghiên cứu sâu rộng tới những nền văn hóa Châu Mỹ thời kỳ Tiền Colombo. Khi ấy, tôi vẫn nhiệt huyết giảng dạy về các nền văn minh cổ đại, về Olmec, Maya, Toltec và Aztec; vẫn thường xuyên tranh luận với các đồng nghiệp về những giả thuyết chưa có lời giải, vẫn là một con người của khoa học và lý trí. Nhưng tất cả những điều đó giờ đây chỉ còn là một ký ức xa vời, một thứ gì đó mong manh và vô nghĩa trước thực tại điên loạn mà tôi đang phải đối mặt. Và căn nguyên của hết thảy sự kinh hoàng này, hẳn phải bắt đầu từ sáu ngày trước đó, cái ngày mà tôi phát hiện ông bạn già Stanley của mình đã chết trong một tư thế cực kỳ quái dị ở nhà riêng của ông ấy.
.
Đó là buổi cuối chiều của ngày 28 tháng 3, khi tôi đang trở về từ Trường Đại Học với một xấp luận văn còn chờ để đánh giá kẹp bên tay. Và như một thói quen trước khi bước vào nhà, tôi kiểm tra hòm thư của mình, nhận lấy báo và một tập thư từ gửi đến bởi những người đồng nghiệp ở Mississippi và Massachussets. Nhưng rồi trong số đó, tôi bỗng phát hiện một lá thư kỳ lạ, trông nhăn nheo và rõ ràng là vừa được nhét vào cách đây không lâu... Chữ viết tắt S.H. ở mục người gửi ngay lập tức cho tôi biết rằng Stanley, một người bạn lâu năm của tôi và cũng sống ở Harendell chính là chủ nhân của lá thư này. Dù vậy, những nét chữ run rẩy và xiên vẹo đó lại hoàn toàn không giống như phong cách chỉn chu thường ngày của ông ấy, hẳn là Stanley đã phải viết nó một cách rất gấp rút và vội vã... lại hoặc là ông ấy đã viết nó trong một tình trạng hết sức tồi tệ. Và bất kể là cái nào trong số đó mới thực là sự thật thì chúng đều khiến tôi không thể chờ đợi được để tìm hiểu xem liệu ông ấy đang muốn nói với tôi điều gì hay ông ấy đang gặp phải vấn đề nào.
Với sự hiếu kỳ đó, tôi mở bức thư ra và ngay lập tức đập vào mắt tôi là những dòng chữ cực kỳ rời rạc, nhưng chất chứa một nỗi kinh hoàng và bồn chồn đến khó tả:
“Dahli, bạn tôi.
Tôi đã tìm thấy một thứ mà chưa một ai từng thấy trước đây. Một vật thể phát sáng không thuộc về thế giới này, một thứ đang sống và mang trong mình những kỷ nguyên chưa từng được kể... Tôi không thể giải thích qua thư. Ông phải tận mắt nhìn thấy nó. Tôi tin rằng nó có niên đại từ trước cả Liên Đại Proterozoic! Người Lacandon cổ đại đã tìm thấy nó và tôn thờ nó như một vị thần. Nhưng Dahli, có điều gì đó không đúng. Tôi có một cảm giác... một nỗi sợ hãi mà tôi không thể diễn tả được... Những giấc mơ đang đến với tôi đầy ghê tởm và gớm ghiếc!
Tôi không biết mình có còn nhiều thời gian hay không... tôi cần ông đến đây ngay!”
Ý nghĩ thoạt tiên của tôi khi đọc xong bức thư đó là một sự chối bỏ. Tôi nghĩ rằng Stanley có thể đã uống quá nhiều. Khác với tôi – một con người của khoa học và lý trí thuần túy, ông ấy lại là một người có thói quen đọc những tài liệu kỳ quái và tham gia vào các hội nhóm nghiên cứu về những điều huyền bí ở Châu Mỹ. Dù là một nhà cổ sinh vật học và khảo cổ học có thực lực, song ông ấy luôn có một niềm say mê không lành mạnh đối với những truyền thuyết dị giáo và những cổ vật không rõ nguồn gốc. Đã không ít lần tôi phải ngồi hàng giờ trong quán rượu cũ ở gần quảng trường Walstein để nghe ông ấy thao thao bất tuyệt về những nền văn minh thất lạc, những tạo vật thần thánh bị nguyền rủa, hay những lý thuyết điên rồ về sự tồn tại của một hoặc nhiều thực tại vượt ngoài tầm hiểu biết của con người đã được nhắc nhở một cách kín đáo thông qua 13 Tầng Trời và Vùng đất nguyên thủy của Aztec, về Omeyocan và Tamoanchan. Mặc dù ba tuần trước Stanley đã thông báo rằng ông ấy sẽ có một chuyến thám hiểm đến rừng Lacandon sau khi rời khỏi Guatemala, và quả thực khu rừng đó vẫn còn hàm chứa rất nhiều những điều bí ẩn, những vết tích cổ xưa của thị tộc Maya cùng với những công trình của họ, như Oxlahuntun hay El Mirador... Nhưng một vật thể sống và đã tồn tại từ thời kỳ Tiền Cambri ư? Và người Maya Lacandon thậm chí đã từng tôn thờ nó như một Vị Thần? Thành thật mà nói, những điều này là quá khó để có thể tin tưởng mà không có bất kỳ một bằng chứng nào được đưa ra, và tôi cũng chưa từng thấy Madrid Codex, Paris Codex và Florentine Codex đã đề cập về một thứ tương tự như vậy.
Tuy nhiên, ngay khi những ý định xem rằng lời cầu cứu của Stanley rất có thể chỉ là một trò đùa bắt đầu nhen nhóm, thì tôi liền phải xua tan hết chúng đi và thực sự nhìn nhận lại nội dung của bức thư một cách thực sự nghiêm túc; bởi lẽ có một điều gì đó trong giọng văn của Stanley khiến tôi bất an—một nỗi tuyệt vọng thật sự.
Không mất quá nhiều thời gian để tôi quyết định bắt xe đến ngay nhà của Stanley. Không phải nơi nào khác mà chính là căn nhà nằm ở cuối đường Belfton của ngoại ô Harendell, vì rằng Stanley đã bảo tôi đến mà không cung cấp thêm bất cứ thông tin nào. Ông ấy đã trở về từ sau chuyến thám hiểm mà chẳng báo với tôi hay những người bạn khác của ông trước đó, phải chăng Stanley đã tìm thấy một di tích mới chưa từng được khám phá? Nhưng nếu quả thực là vậy, thì tại sao ông ấy có thể can tâm trở về Mỹ nhanh đến thế? Có quá nhiều câu hỏi nảy ra trong tâm trí tôi và chúng cứ quanh quẩn trong một vòng cung hỗn loạn không hồi kết.
May thay, khi ánh hoàng hôn sắp sửa phải nhường chỗ cho màn đêm mây dày đặc thì chiếc xe taxi đã đưa tôi đến số nhà 221 biệt lập. Nơi ở của Stanley tọa lạc ở một đoạn góc cua từ đường Belfton qua đến phố Vilva và một bên đâm thẳng ra lối đường chính rời khỏi Harendell; nó ẩn mình giữa những tán cây già cỗi và hoang vắng sức sống. Đó là một tòa biệt thự kiểu Victoria hai tầng được truyền lại cho Stanley từ tài sản thừa kế của bố ông ấy, có mái dốc nhọn hoắt phủ một lớp rêu loang lổ như thể đã chứng kiến thời gian trôi qua nhiều hơn mức mà một công trình nhân tạo đáng lẽ ra nên chứng kiến. Những cột trụ gỗ đã bị nứt nẻ, tỏa mùi ẩm mốc xen lẫn với hương gỗ mục; mặt tiền bong tróc với vệt nước mưa hằn sâu vào tường những dấu vết tàn nhẫn qua nhiều thập kỷ. Và những bên cửa sổ cao, hẹp luôn đóng kín cùng với nền đất xung quanh lổn nhổn đá và lùm xùm những thảm cỏ dại dường như càng tô đậm nên sự lạ thường của ngôi nhà. Rất rõ ràng, lối sống buông thả và kín kẽ quá mức của Stanley là nguyên nhân chính cho danh tiếng có phần “ám ảnh” của nó đối với người dân xung quanh.
Khi tôi bước lên những bậc thềm đến cửa chính trong những tiếng xào xạc của các tán lá u ám, tôi chợt nhận thấy cánh cửa chỉ khép hờ. Và ngay khoảnh khắc đó, một cơn ớn lạnh mình chạy dọc sống lưng tôi làm tôi phát khiếp. Stanley không bao giờ để cửa không khóa chứ đừng nói là khép hờ nó!
Không chần chừ, tôi lập tức đẩy cửa ra và nhanh chóng bước vào, miệng kêu lớn tên của bạn mình song không nhận được sự đáp lại nào ngoài những tiếng vọng càng làm nổi bật thêm sự im ắng đến lạ thường của không gian. Bên trong căn nhà tối om. Tôi đưa tay bật công tắc đèn ngay gần cửa, nhưng đèn vẫn không sáng. Điện có lẽ đã bị cúp, và điều đó khiến cho cảm giác bất an trong tôi càng lúc càng trở nên một lớn hơn. Không khí... Thứ không khí trầm đục và ngột ngạt ấy, nặng nề như thể bị bão hòa bởi một thứ gì đó vô hình và đầy ác nghiệt... cùng với một mùi... cháy khét hôi hám...? Đúng, một thứ mùi như sulfur và nhựa đường hòa quyện với mùi thịt cháy...
—Một dự cảm không lành bùng lên trong tôi, và kéo theo đó là những viễn cảnh đen tối một cách khó tin bất chấp rằng vào thời điểm ấy tôi không hề có bất kỳ lý do nào để đưa ra những kết luận xấu xa đến vậy. Tôi tin rằng vào lúc đó thì chính tôi cũng đã bị ảnh hưởng, bị kéo tuột vào trong cái hố sâu hoắm sẽ chôi vùi mọi lý trí của tôi ít lâu sau. Tôi rùng mình với những suy nghĩ của mình. Và trong cơn tuyệt vọng nhen nhóm, tôi cố gắng hét lớn tên Stanley và lê bước theo mùi cháy khét lên đến thư phòng của bạn tôi – nơi cánh cửa giờ đã bị mở toang và tản phát một nguồn sáng kỳ lạ từ bên trong.
Tôi đứng sững người trước ngưỡng cửa, lồng ngực căng cứng như thể ai đó vừa siết chặt lấy tôi bằng một đôi tay vô hình nhưng đầy chết chóc. Trước mắt tôi, Stanley ngồi bất động ngay giữa căn phòng ngập trong một thứ bóng tối nhầy nhụa khó tả.
Ông ấy ngả người trên chiếc ghế bành sờn cũ với cái đầu vẹo hẳn sang một bên, không còn sức sống. Làn da khô khốc, nứt nẻ và đã già thêm như gần chục tuổi; đôi mắt trừng trừng, mở lớn đến mức gần như lồi hẳn ra khỏi hốc và chảy xuống hai hàng máu dài. Chúng nhìn trân trân vào khoảng không trước mặt thể như đã phải chứng kiến được điều gì đó kinh khủng lắm, vì rằng không thể chắc chắn hơn – là những đường nét đó hoàn toàn lấp đầy một nỗi kinh hoàng tột bậc mà ngôn từ khó có thể mô tả được. Và nếu như sự biến dạng trên khuôn mặt của Stanley là đã đủ để khiến tôi phát hoảng, thì cái cách cơ thể ông ấy cứng đờ trong tư thế tuyệt vọng, với bàn tay phải gồng lên như đang siết chặt lấy một vật gì đó, cũng như thể đang cố gắng vùng dậy khỏi một cơn ác mộng không lối thoát, cố gắng tìm kiếm những tia sáng không bao giờ xuất hiện... chính những điều này mới thực sự làm cho cơ thể tôi tê dại. Làm cho tôi chắc chắn rằng Stanley, ông bạn già của tôi, đã thực sự chết.
Hơi thở của tôi trở nên nặng nề hơn cả và những nhịp tim từng bước trèo lên cao, lộ ra rõ nét giữa một không gian tĩnh mịch bất tường. Trong cơn sợ hãi và bàng hoàng, tôi không tự chủ được mà lùi bước.
Nhưng rồi, ngay khi tôi vừa mới nhấc chân lên, tầm mắt của tôi bỗng vô thức nhìn xuống bàn tay của Stanley. Nhìn vào thứ mà ông ấy vẫn đang nắm chặt cho tới sau khi chết... thứ đã trở thành nguồn sáng duy nhất soi rõ cho mọi thứ trong căn phòng này... Dường như có một sức mạnh vô hình và một sức hút khó lường nào đó ở nó khiến tôi không tài nào dời mắt nổi.
Chậm rãi, như một kẻ mộng du mất hồn mất vía, tôi bước đến bên Stanley, nhìn chằm chằm vào nắm tay của ông ấy trong một lúc rồi mới cúi xuống và tách từng ngón tay của ông ấy ra với một sự dè chừng đến cực độ; một luồng khí lạnh buốt như kim châm ngay lập tức phóng thẳng vào tay tôi. Tôi nuốt nghẹn, cố kéo ra thứ đang bị siết chặt trong lòng bàn tay đã cứng lại của Stanley, và rồi tôi thấy nó.
... Tôi không biết mình đã đứng đó bao lâu. Một vài phút, hay cả hàng giờ đồng hồ? Trong không gian mang đậm sự tà ác đó? Những ý niệm về thời gian chẳng biết từ lúc nào đã trở nên mờ nhạt đối với tôi. Nhưng khi tôi nhận ra mình vẫn còn đang tỉnh táo, một ý nghĩ bỗng lóe lên trong tâm trí tôi, rằng tôi không thể để bất kỳ ai biết về chuyện này. Tôi không thể để cảnh sát nhìn thấy thứ đó. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi biết chắc rằng họ không nên biết, không được phép biết!
Không chần chừ, tôi nhanh chóng lục tìm những bức thư mà Stanley có thể đã viết về nó, những nghiên cứu của ông ấy. Trong cơn hỗn loạn của mình, tôi xé nát chúng, quăng chúng vào lò sưởi, lấy bật lửa ra và đốt sạch tất cả. Những ngọn lửa bùng lên, nuốt trọn những dòng chữ hoảng loạn của Stanley, để lại trong tôi một cảm giác rỗng tuếch mà tôi không thể nào diễn tả được.
Và mọi chuyện diễn ra sau đó đã chỉ còn là những ký ức mơ hồ, nhỏ vụn và mờ đục đối với tôi. Vì như tôi đã nói, cái khoảnh khắc mà tôi bước vào căn nhà ấy thì chính tôi cũng đã bị ảnh hưởng bởi một thế lực xấu xa vượt ngoài tầm hiểu biết phàm tục.
Có lẽ tôi... đã đóng giả với một vẻ hoảng loạn và chạy đến những ngôi nhà gần nhất, mượn họ chiếc điện thoại để bàn và báo điện cho cảnh sát?
Tôi đã nói gì với viên sĩ quan vào đêm hôm ấy?
Rằng tôi tìm thấy bạn mình chết một cách bí ẩn trong nhà riêng?
Rằng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra?
Rằng có lẽ đó là một cơn đau tim hay một tai nạn nào đó?
Tôi không nhớ nữa.
Tất cả những gì còn tồn đọng trong tâm trí này giờ đây chỉ còn là những bước chân nặng trĩu và vô hồn khi tôi rời khỏi căn nhà số 221 của Stanley Houston, và những cảm giác như thể có một ánh mắt nào đó đang theo dõi tôi từ trong bóng tối.
Và quan trọng hơn hết... rằng thứ đã khởi nguồn cho tất cả những sự việc này, thứ cổ vật bí ẩn mà Stanley đã tìm thấy trong ngôi đền thờ cổ của người Maya-Lacandon bị chôn vùi dưới lòng đất, một ngôi mộ dành cho các K’uhul của Xibalba – Hòn đá phát sáng Tuaoi, vẫn còn đang ấm nằm gọn trong túi áo khoác của tôi.
.
Kể từ sau ngày hôm ấy, tôi đóng cửa và không buồn ra khỏi nhà. Mặc dù vẫn không quá tin tưởng vào những sự kiện siêu nhiên phi thực tế, tôi không thể phù nhận rằng đã có một sự biến chuyển khủng khiếp đang không ngừng móc rỗng từng tia lý trí ít ỏi còn sót lại của tôi; ập đến như một con trăn khổng lồ đang quấn chặt lấy thân thể tôi và bóp nghẹt nó một cách không thương tiếc.
Trong đêm đầu tiên trở về nhà với hòn đá cổ vật, cơn mệt mỏi vì những kích thích liên tục đến với tâm trí đã để cho sự mơ màng của cơn buồn ngủ vùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết và khiến tôi rơi vào một giấc mơ đầy mộng mị và hoang dại. Nhưng trước khi vầng trăng khuyết ló dạng sau những tán mây lởm chởm trên thiên đỉnh, tôi bất chợt tỉnh lại khi đã ướt đẫm mồ hôi cùng cơn lạnh thấu xương xâm chiếm toàn bộ cơ thể. Tôi không cố gắng nhớ lại những gì mình đã thấy trong mơ sau đó, và chắc mẩm rằng sẽ chẳng có gì tốt đẹp mà tôi có thể chờ đợi ở nó; vì vậy, tôi định rằng sẽ không ngủ nữa cho đến khi cơ thể này đạt tới giới hạn.
Vậy nhưng, những giờ lang thang trong suy nghĩ trằn trọc tiếp đó cũng chẳng khác nào một sự tra tấn khủng khiếp đối với tôi, và dù đã gắng rời xa cội nguồn của cơn ác mộng rất nhiều lần, sự chú ý của tôi vẫn luôn dồn về hòn đá cổ vật đó. Chầm chậm, sau những nỗi sợ, sự hiếu kỳ với những điều cấm đoán không biết đã đột ngột lấn át sự tỉnh táo trong tôi, phủ lên tôi một sự thôi thúc điên cuồng và gần như bệnh hoạn đối với việc tìm hiểu xem hòn đá kia rốt cuộc là thứ gì.
Tôi đã thực hành một vài thí nghiệm suốt cả đêm hôm đó, bao gồm cả việc phân tích đồng vị phóng xạ và tìm hiểu về cấu trúc tinh thể của hòn đá. Thoạt đầu, khi quan sát nó qua ánh đèn huỳnh quang, thứ này trông gần giống như một khối Obsidian thô và dày bất thường có độ lớn bằng một hòn đá cuội cầm vừa tay; nhưng khi nhìn kỹ hơn, tôi có thể thấy những tia sáng đỏ như những mạch máu ngầm ẩn sâu bên trong nó, thỉnh thoảng nhấp nháy một cách quái dị như thể nó đang thực sự hít thở. Lạ thay, tôi không hiểu tại sao cường độ phát quang của nó lại có sự sụt giảm rõ rệt so với lúc còn ở thư phòng của Stanley. Và điều càng làm tôi khó tin hơn là Kính hiển vi điện tử quét được dùng để phân tích bề mặt và Máy XRF dùng cho kiểm tra thành phần nguyên tố qua bảng quang phổ đều cho ra những kết quả thực bất thường. Không có cấu trúc tinh thể hoặc thủy tinh vô định hình nào được tìm thấy; không có microlites, không có nanolites, thậm chí không có dấu hiệu của bất kỳ những loại khoáng vật nào như plagioclase hay magnetite... nó trơn nhẵn một cách khó hiểu! Phổ huỳnh quang và tán xạ năng lượng cũng không khớp với bất kể một loại nguyên tố hóa học nào mà con người đã từng biết, dẫu cho một vài dải phổ trong đó phần nào là giống với carbon và sắt!
Phát hiện này gần như đã lật đổ toàn bộ niềm tin của tôi đối với khoa học trước đó mà tôi vẫn luôn tin tưởng một cách chắc nịch, vì dù thứ trước mắt tôi có thực sự là một hòn đá hay không, có chạm được và cảm nhận được một cách thông thường thì cấu trúc của nó cũng hoàn toàn không thể giải thích được đơn thuần về mặt vật lý. Và sự bất lực trong việc nghiên cứu hòn đá cuối cùng khiến tôi nhớ lại về những gì mà Stanley đã nói trong bức thư – vật thể sống và thời kỳ Tiền Cambri.
Stanley đã biết được những gì? Các văn tự cổ mà ông ấy tìm thấy ở ngôi đền là sự khác biệt duy nhất giữa hai chúng tôi, nhưng dù đã đốt hết những tài liệu đó trong cơn vội vàng, thì ít hay nhiều tôi cũng đã nhìn thấy một vài thứ. Tuaoi – đúng, Stanley đã từng liên hệ nó với truyền thuyết về viên đá tinh thể được người Mu sử dụng làm nguồn năng lượng. Và theo ông ấy, hậu duệ của Mu là người Maya sau khi đã di chuyển đến Châu Mỹ từ Tamoanchan đã tìm thấy một loại Tuaoi còn tinh khiết, cổ xưa và giàu năng lượng hơn, cũng chính là viên cổ vật này. Họ gọi nó bằng cái tên Xib’alba Q’ij, có nghĩa là ‘Mặt Trời của Địa Ngục’ và tôn thờ nó như là tàn tích của một Đấng Cha và Mẹ từng hiện hữu trong quá khứ – cội nguồn của tất cả sự tồn tại. Đây cũng là lý do vì sao ông ấy lại nói hòn đá ‘đang sống và mang trong mình những kỷ nguyên chưa từng được kể’.
Nhưng những điều này thực sự khả thi sao? Tôi không tài nào chấp nhận nổi! Một cổ vật tồn tại từ thuở sơ khai của Trái Đất không nên được bảo tồn với sự nguyên vẹn như vậy! Tôi muốn khảo chứng nó theo phương thức của riêng tôi, tôi muốn tìm ra một lời giải thích hợp lý hơn và có thể làm dịu đi sự khó chịu này!
Nghĩ như thế, tôi toan sử dụng một vài phương pháp đơn giản nhằm giúp tôi có thể đưa ra những phán đoán với tuổi đời của hòn đá – mà phần nhiều là tôi mong chúng có thể dẫn tới những kết luận đủ để phản bác lời nói của Stanley. Mặc nhiên, mọi kỳ vọng của tôi sau đó đã nhanh chóng bị dập tắt một cách hết sức phũ phàng – các kiểm tra đơn giản về độ phong hóa và những vết nứt, những đo lường phóng xạ từ Máy Geiger so sánh với các mẫu đối chững sẵn có; cùng một phương pháp khảo chứng khá dị biệt nhưng có đầy đủ tính tin cậy của riêng tôi đã cho ra một ước lượng tương đối, rằng hòn đá này đã tồn tại từ khoảng liên đại Archean, và rất có thể là từ thời điểm của Vụ Ném Bom Hạng Nặng xảy ra, thậm chí sớm hơn nữa. Vậy nhưng bất chấp những điều ấy, sự xói mòn, độ phong hóa và hàng tỷ năm tác động của địa nhất không hề để lại trên hòn đá này một chút ảnh hưởng nào!
Nhận lấy một đáp án không mong muốn là sự đả kích trầm trọng đối với tôi, suốt cả một ngày dài hôm đó tôi ngồi bệt ra và thẫn thờ nhìn hòn đá. Có lẽ tôi đã sớm biết về kết quả này, có lẽ tôi đã sớm biết nhưng vẫn luôn từ chối tin tưởng. Với những tâm tư đó, tôi nhanh chóng kiệt quệ về cả mặt tinh thần lẫn thể lực. Đến đêm, tôi đột nhiên choáng váng lạ thường và lâm vào một cơn sốt nặng. Cơ thể tôi xung huyết và nổi phát ban khắp nơi; nhiệt độ cơ thể tăng cao, nhưng cái nóng rực mà tôi cảm nhận được lại không giống như đến từ một cơn sốt thông thường. Nó không đến từ máu thịt hay cơ bắp, mà dường như thấm đẫm vào tận linh hồn tôi, nung nấu từng tế bào, từng nơron thần kinh và từng suy nghĩ của tôi trong một ngọn lửa hừng hực màu xám đặc không thể bị dập tắt. Và kể từ đó thì cơn sốt cùng những giấc mơ quái dị không buông tha cho tôi nữa.
Những giấc mơ giờ đã nổi lềnh bềnh trên mặt nước, trở thành một con thú ám ảnh nuốt chửng ánh sáng và lăn tròn trong những cung giờ của ma quỷ. Chúng tái diễn mỗi đêm, từng chút một trở nên chân thật và rõ ràng hơn, kéo tôi vào một thế giới mà tôi không bao giờ muốn đặt chân đến và ấn mạnh vào tâm trí của tôi những ký ức dai dẳng không thể phai nhạt. Khi mở mắt, tôi thấy mình đang đứng giữa một cõi hoang tàn không thuộc về con người. Trải dài khắp tầm mắt của tôi là một vùng đất trập trùng nứt nẻ với bề mặt cháy đen, ngập tràn trong một đại dương mắc ma tuôn trào từ những vết nứt khổng lồ và hàng loạt những đỉnh núi lửa cuồng bạo không dứt. Khói dày đặc bốc lên từ những con sông dung nham đỏ rực, phủ kín bầu trời trong một tấm màn đen nghẹt thở và ngự trị vĩnh hằng. Chỉ với cái nhìn đầu tiên, tôi nhận ra rằng nơi tôi đang đứng hẳn phải là một cõi nơi sự sống tránh xa, nơi sinh mệnh không thể thành lập, và sâu thẳm trong những viễn cảnh tận thế khốc liệt tột cùng này là những gì đã vượt ra ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ và vượt xa khỏi sự tỉnh táo của lý trí đơn thuần. Sự ghê rợn và nỗi sợ trước mắt tôi đã ngưng thực thành một cái giếng đang há miệng, và khi tôi tinh tế cảm nhận, nó là một thực tại man rợ phản bội mọi quy luật tự nhiên, vươn lên khỏi những tầng lớp yếu đuối của hiện thực và trở thành một con quái vật sống xấu xa, ác độc và đầy hăm dọa.
Và khi tôi có can đảm để bước đi, xuất hiện trong tâm trí của tôi là những hồi ức và liên tưởng dần trở nên xa vời khỏi đức tin, rằng tôi nhớ về một thế giới đầy lửa, khói và bóng tối tuyệt vọng trong Thiên Đường Đã Mất, nơi mà Lucifer cùng chính bè lũ của hắn đã rơi xuống từ chốn Thiên Đàng. Rồi những bước chân băng qua dải đất kinh hoàng trong một cơ thể siêu nhiên không cảm nhận được cái chết, tôi lại nhớ về những dòng chữ được khắc trên Cổng Địa Ngục mà Dante đã đi qua, vì dòng thứ chín và cuối cùng – “Hỡi những ai bước vào đây, hãy từ bỏ mọi hy vọng”.
Khao khát muốn được tìm hiểu những cấm kỵ đã sớm im bặt trong tôi. Hoặc có lẽ là nó vẫn còn nhưng không còn mãnh liệt và bị thôi thúc một cách kỳ lạ như trước.
Hòn đá.
Chính hòn đá đó. Cái tên mà tôi đã đọc được trong những bản thảo của Stanley – một danh xưng đáng sợ gắn liền với sự diệt vong trong tín ngưỡng ngoại lai của người Maya. Danh xưng chỉ là một sự ẩn dụ, vì tôi chắc chắn rằng những người đã tôn thờ viên đá này biết rất rõ nó là gì. Và điều tồi tệ nhất là, dù tôi biết rằng mình đang mơ, tôi không thể tỉnh lại theo ý muốn của mình. Tôi bước đi một cách vô định, nhưng luôn tỉnh giấc trước khi có thể tìm hiểu được nhiều hơn; và mỗi lần tôi thức dậy, cơn sốt lại chuyển biến trầm trọng thêm, và cái cảm giác nóng bức trong giấc mơ dường như không chỉ còn nằm trong tâm trí tôi nữa.
Rồi tôi nhận ra rằng chính căn phòng của mình cũng đã trở thành một cái bẫy.
Cơn sốt đã làm tôi kiệt quệ, nhưng không có gì đáng sợ hơn sự thật rằng tôi không thể rời khỏi căn nhà của chính mình. Mọi cánh cửa đã trở nên vô dụng, như thể tôi đang mắc kẹt trong một thực tại bị bóp méo và cắt xén khỏi những lối thoát. Tôi đã thử mở cửa, thử phá cửa sổ, nhưng vô ích. Trong cơn bực tức, tôi thậm chí đã cầm hòn đá cổ vật lên và ném mạnh nó ra ngoài. Kính vỡ nát, nhưng chỉ trong một cái chớp mắt, trước khi tôi có thể kịp reo hò vì sự giải thoát tạm bợ, thì viên đá đã trở lại trong lòng bàn tay tôi – lạnh lẽo và bất động như thể chưa từng bị ném đi, và cửa kính cũng trở về trạng thái vẹn toàn của nó trước đó.
Tôi thử lần nữa. Và lần nữa.
Nhưng kết quả vẫn như cũ. Không quan trọng tôi có ném nó mạnh đến đâu, xa đến đâu – viên đá vẫn trở lại, luôn nằm trong tay tôi như một lời nhắc nhở rùng rợn rằng tôi không thể thoát khỏi nó. Nỗi hoảng loạn leo thang nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Tôi hét lên, đập vào tường, cố gắng gọi ai đó đến giúp, nhưng âm thanh dường như cũng không thể xuyên qua những bức tường này. Tôi không biết liệu có ai có thể nghe thấy tôi hay không, hay liệu tôi có còn đang ở trong thế giới của con người nữa hay không. Vì rằng mọi thứ trong tầm nhận thức của tôi đã bị đảo lộn. Cùng với những ánh sáng của hòn đá tỏa ra mãnh liệt hơn theo thời gian, ẩn ẩn xuất hiện những âm thanh như tiếng cười của Satan và lũ quỷ; hơi nóng trong căn nhà mỗi lúc một tăng lên tựa như một cái lò thiêu khổng lồ đang được đun nấu, và dù nước không bốc hơi, chúng lại khiến cho những thanh gỗ mun trở nên ẩm mốc đầy khó chịu. Đôi lúc, tôi thậm chí có thể thấy những gợn sóng méo mó trong không khí, giống như thứ ta thường thấy trên con đường nhựa vào những ngày hè nóng nực – nhưng đây không phải là một mùa hè ma quái. Đây là một thực tại méo mó, một điều gì đó mà tôi không thể lý giải được nữa, tôi cảm thấy mình như con chuột chạy loạn trong một mê cung đóng kín cửa; và vang vảng bên tai là những âm thanh vô hình inh ỏi đến từ chốn địa ngục ma quái đang rình rập.
Ôi ~ Những giấc mơ đáng ghê tởm đang xâm lấn và một thực tại đáng chết đang mục ruỗng! Tôi không thể không ngủ, và dù có chợp mắt hay không thì sự tra tấn vẫn cứ tiếp diễn từ ngày qua đêm. Nhiều lần tôi đã thử sử dụng những miếng dán nicotine và xylazine, một vài liều morphine hoặc thậm chí là cả thuốc an thần nhằm thoát khỏi được sự trầm mịch đau đớn ám lấy; nhưng tác dụng của chúng nhanh chóng bị lu mờ bởi cơn sốt ác tính đang tàn phá cơ thể tôi mà không một loại thuốc nào có thể điều trị. Vào ngày thứ năm, khi đã đi đến bước đường cùng và nằm trong một trạng thái gần như bất động trên chiếc ga giường ướt đẫm của mình, tôi chỉ còn cách với lấy những chai Everclear 70 độ đã cất trữ suốt nhiều năm hòng phá hủy bản thân theo một chiều hướng dễ dàng hơn là để sự tra tấn khiếp khủng này tiếp diễn. Phải. Giờ đây tôi đã không còn thiết sống nữa mặc cho tôi cũng không dám khoát dứt từ bỏ sinh mệnh của mình, và tôi cũng biết mình đã vượt quá ranh giới có thể giữ mạng. Giống như Stanley, tôi đã để sự hiếu kỳ của mình vượt ngoài tầm kiểm soát, và cứ theo đà này, sẽ chỉ còn hai hoặc ba ngày nữa trước khi hòn đá sẽ đạt tới cùng một độ sáng mà tôi đã thấy hôm đó ở nhà của bạn tôi – nơi ông ấy chết.
—Stanley... Stanley Houston... Stanley đã chết như thế nào?
Một ý nghĩ thông suốt chưa từng có trong suốt những chuỗi ngày dài vật vã bỗng bùng lên trong tôi. Ông ấy đã gửi một bức thư cho tôi, vậy là ông ấy đã thoát khỏi ngôi nhà của mình! Làm thế nào? Làm thế nào Stanley có thể trốn khỏi không gian khép kín này? Và tại sao ông ấy lại quay lại? Tại sao ông ấy lại ngồi chờ chết?
Không. Ông ấy không ngồi chờ chết. Ông ấy bị buộc phải ngồi chờ chết trong chính căn biệt thự! Hòn đá này là một thứ tà ác tột bậc, nó sống, ông ấy đã nhắc cho tôi rằng nó sống! Nó gieo rắc những nỗi kinh hoàng và sự tra tấn tưởng chừng là vĩnh hằng lên cả tôi và ông ấy, dồn ép chúng tôi đi tới bên bờ vực thẳm. Và khi mọi ảo tưởng đã bị phá diệt không thương tiếc, nó sẽ để cho chúng tôi một lối thoát – hệt như lối thoát đã giúp Stanley gửi bức thư, tôi cũng sẽ sớm có được cơ hội rời khỏi cái lồng giam oan nghiệt này! Nhưng nếu chúng tôi mở cửa và rời đi, hòn đá cũng sẽ thoát khỏi cái lồng giam của riêng nó. Chúng tôi là vật dẫn, và chừng nào chúng tôi vẫn chưa chết thì những giấc mơ sẽ theo đó tràn ra bên ngoài, địa ngục và tận thế sẽ giáng lâm lên chính thế giới ngoài kia! Vì vậy Stanley đã lựa chọn chờ chết.
Nhưng tại sao Stanley lại đưa tôi lẫn vào trong vụ việc này? Đây là điểm duy nhất tôi không hiểu. Những giọng văn bức thiết của ông ấy không giống như là giả tạo, và tôi tin rằng bạn mình có đủ ranh giới đạo đức để không lôi kéo một người vô tội vào trong sự việc này. Chính lựa chọn đón nhận tử vong của Stanley cũng đã nói lên điều đó.
Ông ấy muốn tôi làm một điều gì đó.
Một điều mà chỉ mình tôi có thể làm được.
Một thứ gì đó đơn giản... hoặc là...
Kiến thức của tôi.
Những nghiên cứu cùng nhau của chúng tôi.
Những bức thư khó hiểu mà Stanley đã gửi nhiều tuần trước lóe vụt lên trong những ký ức của tôi.
“Người Maya tạm bợ... đánh cắp từ Aztec Cổ... Viên đá pha lê. Họ không lấy ban ơn mà giam cầm. Thờ cúng bằng Nguyên Lý... Trong căn phòng của Hai có Nguyên Lý Kép, giống như khuôn mặt và linh hồn...”
“Khuôn mặt là cơ thể... lấy cơ thể phong ấn, và linh hồn đi cùng giấc mơ. Miền cội nguồn... quá khứ... xa ngoài những chòm sao... những Altas’ollin sẽ trợ giúp tôi. Và I’Ikannuel sẽ nói với tôi điều tôi muốn. Dưới mặt đất là một hang pha lê, nơi đó có những miền vũ trụ vô tận... và những bài hát của Cha và Mẹ bị phong ấn. Tôi sẽ đến đó. Tôi hướng mình tới đó. Nơi thần thoại vẫn sống!”
“Tôi cần chất xúc tác. Bột của Zalphon, vòng tròn số ba của Iri... một vòng máu lớn bằng một phần hai Bel... ký hiệu kép. Xóa nó ba lần và vẽ nó lại lần thứ bốn, nằm ở đó trong sáu tiếng... Đọc những vần thơ từ Immahult... Mặt Trời... Nơi ở của hai, hát bài ca của Vị Thần Gió. Và xóa nó... chờ đợi.”
“Ôi Chúa, Dahli! Nếu có chết hãy biết Nguyên Lý. Những giấc mơ lạ sẽ mở cho ông một con đường. Dứt khoát... vì chỉ những ai dám từ bỏ mới đạt được sự ưu ái của Omëceӓtl! Và ơn Chúa, Ometeotl hãy tha cho con. Con mù quáng, con sẽ gieo mình cùng tội lỗi nếu nó không thể thoát khỏi. Chỉ có tội lỗi mới đến được hai, giải thoát... hát lên... những cơn gió. Địa Ngục... nơi nguyên sơ ta từng ở!”
Lúc trước, tôi cho rằng chúng chỉ là những lời nói vớ vẩn và điên khùng của Stanley như ông ấy vẫn hay nói với tôi. Nhưng giờ đây, tôi trầm lặng trước sự thực được bày ra. Cám dỗ, tội lỗi, sự giải thoát về thể xác bằng cách kéo theo một thể xác khác đi cùng... Stanley đã có một lựa chọn cao cả với nhân loại nhưng cuối cùng ông ấy vẫn không thể cưỡng lại những cơn thôi thúc cho niềm đam mê bất tận của mình, và đó là lý do có tôi ở trong câu chuyện này. Tôi là một bước đệm của ông ấy. Và dù nó có là sự thực hay không, giờ đây Stanley cũng cho tôi một lựa chọn tương tự. Tôi có thể thử, nhưng điều đó đồng nghĩa với việc bàn tay tôi sẽ nhuốm máu bởi tính mạng của một kẻ khác—
Mọi chuyện diễn ra sau đó thật mơ hồ. Có lẽ là vì sự day dứt, tôi tin rằng mình đã tự đóng cổng tâm trí, xóa đi tính liền mạch và những tỉnh táo còn sót lại. Tôi để lại một bức thư cho người đến sau, gửi nó đi cẩn thận trước khi nó cũng bốc cháy trong bầu không khí hiểm ác của căn phòng; và tôi nghĩ rằng mình đã ca hát và nhảy múa điên cuồng khi lấy lại được sức sống vào ngày hôm sau, tôi vui cười và nói chuyện rất nhiều trong trạng thái trần truồng và bệnh hoạn. Dù sao đi nữa, tôi cũng không còn là Dahli của những ngày trước. Dưới sự tuyệt vọng khôn cùng, mọi nguyên tắc của tôi đã đều bị dẫm đạp không thương tiếc.
Tối đó khi mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất, tôi gom lại tất cả số thuốc ngủ trong nhà – một lượng đủ để đưa tôi đi tới cõi chết mà không bao giờ tỉnh lại nữa. Và khi nằm trên chiếc giường của mình, tay nắm chặt hòn đá sáng chói đang phát ra những âm thanh rên rỉ, tôi ăn mặc chỉnh tề, chờ đợi bóng tối chầm chậm đến.
.
Tôi đứng dậy, rởi khỏi cơ thể mình. Không có một sự bất ngờ nào. Không có sự hoảng loạn. Tôi chỉ đơn giản là mở mắt và thấy mình đã đứng lên, ngay bên cạnh chính thân xác tôi, vẫn đang bất động trên giường. Cuối cùng thì tôi vẫn khác Stanley, tôi lựa chọn một kết cục khác cho bản thân mình, vẫn có tội lỗi, nhưng tôi sẽ tìm thấy sự chuộc tội của mình trong địa ngục. Những giấc mơ sâu đã cho tôi biết ở nơi đó vẫn còn những thứ khác. Tôi không cô đơn và vẫn sống, không còn đau đớn về thể xác và linh hồn, nhưng tôi sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong sự ác liệt của nó như một bóng ma vô cảm, đó chính là sự chuộc lỗi của tôi.
Căn phòng bắt đầu biến dạng. Những bức tường không còn ổn định nữa, chúng tan chảy, uốn lượn, như thể tôi đang nhìn chúng qua một mặt nước bị khuấy động. Cửa sổ bật toang, nhưng phía ngoài không còn là Harendell mà chỉ là một khoảng không đen ngòm, một vực sâu vô tận đang gào thét.
Và rồi tôi bị kéo đi nhanh chóng.
Trong sự ngỡ ngàng và dần như nhận ra điều gì, tôi thấy quá khứ trôi qua trước mắt.
Ban đầu, đó chỉ là những hình ảnh quen thuộc của Harendell, nhưng bị mờ nhòe và vặn vẹo. Những con phố, những tòa nhà, những người qua lại, tất cả đều chạy ngược. Những chiếc xe lùi về điểm xuất phát, những con người bước ngược lại, quay trở về những ngày trước đó.
Thời gian tiếp tục lùi xa. Ánh đèn điện tắt phụt. Những tòa nhà biến mất, những con đường trải nhựa biến thành những con đường đất. Những bảng hiệu rơi rụng, tan biến. Những con người mặc quần áo của một thời đại khác rồi cũng mờ dần.
Mặt đất dưới chân tôi dần trở nên bất ổn, và sau đó nó biến mất trong tích tắc. Tôi rơi vào một khoảng không vô định. Nhưng không phải là bóng tối, không phải là hư vô. Đó là một đại dương của lửa và tro tàn, không có sự sống. Không có gì ngoài một tông màu hỗn tạp của đen, đỏ và vàng. Chỉ có tro bụi, dung nham, và những cơn bão chết chóc nóng bỏng. Những cột khói đen bốc lên từ các vết nứt trên mặt đất. Không khí đặc quánh với mùi hồi thối kinh tởm. Một màu máu phủ kín bầu trời, che khuất cả vũ trụ – chỉ còn một quầng sáng chết chóc, chói lóa và vặn vẹo.
Và, tôi thấy chúng.
Những hòn đá ác độc. Không phải là cổ vật. Không phải là một thứ gì đó xa lạ và thần thánh. Chúng chính là bản thể nguyên thủy của Trái Đất, là những khối đá méo mó, lởm chởm, bị nung chảy và hợp nhất theo những cách mà địa chất thông thường không thể giải thích được. Những vết nứt trên bề mặt chúng tỏa ra ánh sáng lập lòe, như thể chúng vẫn còn sống, vẫn còn thở.
Tôi hiểu, rằng tại đây tôi đang đứng, không phải là một cõi giới siêu nhiên được hình thành bởi trí tưởng tượng, nó là Trái Đất của những thuở sơ khai và còn non trẻ. Nó chính là thời đại mà bản thân hành tinh được gọi với cái tên Địa Ngục.
Liên đại Hadean.
Đây là Trái Đất.
Và tôi đã luôn ở đây, trong những giấc mơ.
Tôi chợt cảm nhận được sự hiền dịu trong những miền hoang tưởng tôi đã rơi vào trước đây, và những cảm giác khó tả khi chứng kiến những khung cảnh đó mà ẩn ẩn ngờ rằng đằng sau nó là một cấm kỵ còn khiếp hãi hơn cả. Không còn là những giấc mơ, và do đó mọi bảo hộ và tấm màn che đã biến mất; một sự hiện diện, một hoặc vô số những thực thể vô hình nhưng khủng khiếp đang quan sát tôi ngay khoảnh khắc tôi đặt chân đến thời đại của họ, thậm chí xuyên thấu tôi, và có những thứ còn khủng khiếp hơn đang rục rịch trong cơn say giấc, trườn mình trong sự hỗn loạn ác tính tột bậc. Tôi mở miệng, nhưng không thốt ra được lời nào. Phần lớn lý trí và cảm xúc đã trở nên vô nghĩa tại thời điểm này, và trong tôi chỉ còn lại một thứ gì đó sâu thẳm hơn cả bản năng bị đánh thức, một cảm giác hãi hùng khiếp vía kéo theo sau bởi những nỗi sợ thấm đẫm trong sự điên loạn phun trào. Và rồi, tôi hét lên—
.
Cảnh sát trưởng Green và Hiệu trưởng Howard đã cùng nhau thảo luận về những điểm bất thường trong cái chết của Stanley Houston, và những manh mối mà họ có đều dẫn họ tới cùng một nghi phạm mà không ai trong số cả hai mong muốn. Sáng ngày 4 tháng 4, sau một thời gian vắng tin của nghi phạm, cả hai đã quyết định không thể chờ đợi nữa và đến căn nhà 42A phố Hilver mà họ tin là nghi phạm vẫn chưa hề rời đi – thế nhưng, họ đã không bao giờ có thể nhìn thấy bất kỳ dấu vết nào của Dahli Mortensense nữa.
Bất chấp những niềm tin phổ biến về việc Dahli có thể đã trốn thoát bằng một cách thần kỳ nào đó khỏi những chốt kiểm tra dày đặc của Harendell, đem theo toàn bộ số tài liệu của mình cùng ít nhất một bằng chứng cực kỳ quan trọng trong vụ sát hại Stanley Houston; những nhà điều tra thận trọng, và đặc biệt là Charles Green – người phụ trách trực tiếp của vụ án đã không ngần ngại bày tỏ sự phản đối với quyết định được đưa ra. Rõ ràng là vẫn còn rất nhiều điều bất thường và không hợp lý, và chúng chỉ có thể giải quyết được khi những âm mưu gia bắt đầu vẽ nên những bức tranh khó tin về các thế lực siêu nhiên đã can thiệp; nhưng hai trong số những câu hỏi lớn nhất có lẽ chính là:
Vì sao thi thể của Stanley Houston cũng biến mất không lâu sau đó trong nhà xác? Và tại sao, trong ngôi nhà 42A trống không, trên chiếc giường ở căn phòng ngủ của Dahli Mortensense – một vệt cháy đen rất kỳ lạ gần như thiêu hủy cả khung giường và một phần góc tường lại xuất hiện, và không thể bị tẩy rửa sau đó?
- End -


0 Bình luận