Youjo Senki
Carlo Zen Shinobu Shinotsuki
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Vol 5: abyssus abyssum invocat

Chương II: Tình Bạn Kỳ Lạ

0 Bình luận - Độ dài: 20,546 từ - Cập nhật:

Ngày 15 tháng 9 - năm 1926 - Năm thống nhất - Thủ đô Đế quốc -Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Đế Quốc

Ngay khi bước qua cổng của Bộ Tổng Tham Mưu, Trung tá Tanya von Degurechaff lập tức tiến thẳng đến phòng làm việc của Trung tướng Zettour, người mà cô đã hẹn gặp trước đó.

Bước chân của cô không thể gọi là nhẹ nhàng. Dĩ nhiên, hành trình dài từ mặt trận chính ở phía Đông đến thủ đô đã khiến cô cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, ngay cả sự mệt mỏi do việc liên tục di chuyển bằng máy bay vận tải và một phần trực tiếp bay đến đây cũng không thể so sánh với sự hao mòn về tinh thần mà cô đang phải chịu đựng.

Nhìn qua cửa sổ, bầu trời u ám hiện ra trước mắt.

Nếu tồn tại X đang kéo những sợi dây ác ý, thì thật đáng nguyền rủa, nó hiểu rất rõ tình hình của cô lúc này. Thời tiết thật đáng ghét, không thể diễn tả được sự khó chịu mà nó mang lại. Cái thời tiết ấy dường như phản ánh một cách hoàn hảo tâm trạng của cô lúc này.

Nhưng nếu bầu trời hiện tại là phản ánh tâm trạng của tôi, thì chừng nào đó trời quang mây tạnh ? Liệu ngày đó có bao giờ đến?

Những lời lẩm bẩm... Không, tôi phải ngừng lẩm bẩm thôi.

Với Tanya von Degurechaff, cô phải thừa nhận một sự thật đau đớn rằng, lỗi lầm của bản thân là điều không thể chối cãi. Đó là một sự sỉ nhục, là một thất bại, nhưng cũng là điều mà cô không thể giấu diếm.

Việc che giấu sai lầm là dấu hiệu của một kẻ bất tài thực sự. Một kẻ ngu ngốc đến mức không thể cứu chữa, một đống rác khổng lồ mà ngay cả án tử hình cũng không đủ để xử lý. Dù có dùng bao nhiêu lời lẽ, vẫn không đủ để diễn tả hết sự ngu ngốc này.

Các vụ tai nạn thường xảy ra do việc che giấu những sai lầm nhỏ tích tụ lại. Một tổ chức che giấu những sai lầm nhỏ sẽ bị những sai lầm lớn, không thể che giấu, hủy hoại.

Con người là loài sinh vật có thể phạm sai lầm. Không có cách nào tránh khỏi điều đó. Nếu không thừa nhận sai lầm, sẽ bị chính những sai lầm chưa thừa nhận đè bẹp.

Chính vì vậy, hoặc có lẽ, chính vì điều đó. Kẻ ngu ngốc che giấu sai lầm thực sự chỉ có thể bị xử lý bằng cách bắn chết. Người làm việc không hiệu quả thì muốn bắn chết, nhưng kẻ ngu ngốc che giấu sai lầm thì nhất định phải bắn chết.

Đó là một chân lý hiển nhiên. Nó gần như là một chứng minh dựa trên kinh nghiệm mà xã hội loài người đã rút ra, hơn là một định lý.

Dù sao, khi đã mang trên mình trí tuệ hiện đại, thì thay vì trở thành kẻ bất tài không thể tha thứ vì che giấu sai lầm, buộc phải chọn làm kẻ bất tài thừa nhận sai lầm đã phạm phải.

Do đó, mặc dù với cảm giác cay đắng, Trung tá Tanya von Degurechaff buộc phải thú nhận thất bại của mình.

"Xin thưa ngắn gọn. Thưa ngài, chúng tôi đã giết quá nhiều người. Tuy nhiên, may mắn thay... chúng tôi có thể điều chỉnh lại hướng đi, chúng ta vẫn chưa đến mức phải từ bỏ." Tanya đáp.

Hiểu biết của Zettour về chiến tranh tổng lực là hoàn toàn chính xác. Việc chất đống xác kẻ thù là điều nên làm nếu có thể. Tuy nhiên, khi tiền đề thay đổi, thì câu trả lời cũng phải thay đổi. Chính vì vậy, Tanya phải báo cáo sai lầm mà cô đã nhận ra.

"Đúng như ngài nói. Tuy nhiên, theo ý kiến của tôi, nếu có thể giảm số lượng 'kẻ thù' bằng lời nói thay vì đạn dược, thì sử dụng lời nói sẽ tiết kiệm hơn."

Kẻ thù, nếu thật sự là kẻ thù, thì nên bị tiêu diệt. Nhưng Tanya, với tính cách thiên về 'tính hợp lý', luôn ưu tiên lựa chọn phương án có chi phí thấp hơn. Nếu có lựa chọn tiết kiệm hơn, thì đó chính là công lý.

"Chúng ta cần phải xem xét tình hình tài nguyên và năng lực sản xuất của quốc gia. Thói quen lãng phí đạn dược một cách bừa bãi cần được thay đổi."

Lời nói, so với đạn dược, gây ít áp lực hơn lên hệ thống hậu cần. Chia để trị - nguyên tắc lớn đó bắt đầu từ lời nói.

Ngay cả những người điên cuồng về trà ở thuộc địa, dù yêu thích chiến tranh và thể thao, cũng nhận ra rằng lời nói, ngôn ngữ, tên gọi và tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc cai trị thuộc địa.

"Nếu không cần gửi từ quê nhà, thì đúng là lời nói sẽ rẻ hơn," Zettour đồng tình. Nghĩ đến công sức và nguyên liệu cần thiết để sản xuất một viên đạn, cùng với chi phí vận chuyển đến tiền tuyến, lời nói có thể chuẩn bị tại chỗ quả là một lựa chọn tuyệt vời.

Trung tướng Hans von Zettour cũng đồng ý với Tanya từ góc độ hậu cần. "Tuy nhiên, trung tá, vấn đề ở đây không chỉ là chi phí mà còn là hiệu quả."

Nếu có thể mong đợi hiệu quả, thì câu nói đó có thể được chấp nhận.

"Hiệu quả, thưa ngài?"

"Viên đạn hoạt động theo cách vật lý. Trong khi đó, tranh cãi về ý thức hệ chưa đem lại hiệu quả gì. Tham mưu trưởng và Hội đồng Tối cao đã thử sức, nhưng..."

Đối với một quân nhân có lý trí, việc muốn 'đóng một cái nêm' vào Liên bang trong thời chiến là điều hợp lý. Không làm vậy mới là điều bất thường. Đế quốc là một cỗ máy bạo lực tinh vi. Trong lĩnh vực nỗ lực chiến tranh, Đế quốc không bao giờ lơ là. Một phần trong đó là công tác tuyên truyền chống đối, mà Bộ Tổng Tham Mưu đã thử nghiệm từ sớm. Chính Trung tướng Zettour cũng đã ra lệnh điều tra về chiến tranh tâm lý.

Hiệu quả của công tác này cũng đã được kiểm chứng, nhưng phải thừa nhận rằng không có kết quả đáng kể nào đạt được. Dù có thể hiểu được những điều mà Tanya muốn nói, Trung tướng Zettour vẫn khẳng định rõ ràng:

"Thẳng thắn mà nói, Logos im lặng trong thời chiến."

"Thưa ngài, chẳng phải Logos sẽ cất tiếng trong thời chiến, khác với luật pháp sao?"

"… Về lý thuyết thì có thể là như vậy," Zettour đáp, nhưng giọng điệu tiếp theo không hoàn toàn tích cực. "Thẳng thắn mà nói, chúng ta đã tiến hành công tác tuyên truyền chống cộng từ gần như ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, nhưng... không có hiệu quả. Dù có thể còn không gian để nghiên cứu, nhưng khó có thể xem đây là một lựa chọn thực tế vào lúc này."

Logos, lời nói, lý lẽ, logic – tuy đáng sợ nhưng vẫn chưa nở rộ, Zettour lắc đầu.

"Công tác tuyên truyền chống cộng à?" Tanya thở dài nói. "Lời nói, dù là một vũ khí, vẫn còn xa mới đạt đến mức hoàn hảo."

Chính điều đó là một sự hiểu lầm đáng sợ. Tanya tin rằng lời nói đã là một vũ khí hoàn chỉnh, thậm chí đã được chứng minh qua thực tế chiến đấu. Những người thông minh thường bị lừa bởi chính sự thông minh của mình, mắc kẹt trong những ảo giác do tính hợp lý gây ra.

"Đúng vậy, có những nỗ lực do Quân cảnh thực hiện. Nếu quan tâm, tôi có thể cung cấp tài liệu kiểm chứng."

"Thưa Trung tướng Zettour, đó chính là thành kiến và định kiến. Công tác tuyên truyền chống cộng chỉ là rác rưởi, hãy vứt nó đi."

Tanya đưa ra ý kiến cay đắng. Ban đầu, cô cũng bị giam cầm trong quan điểm 'chống cộng' nên cảm thấy khó chịu. Nhưng giờ đây, cô nhận ra rằng điều đó là một sai lầm lớn.

Con người, không phải lúc nào cũng hợp lý. Tất cả các tiền đề, công lý hay định lý hiển nhiên, đều cần được xem xét lại. Chúng ta đã phạm phải sai lầm khi giả định rằng kẻ thù là những người cộng sản. Trong thực tế, không ai trong số các binh lính kẻ thù thực sự tin vào chủ nghĩa cộng sản. Đó là một mâu thuẫn.

Tanya nhấn mạnh rằng cần chú ý kỹ hơn, tránh những thành kiến mù quáng. Khi nhận ra điều này, nhiệm vụ của một người trí tuệ là giải quyết những mâu thuẫn giữa các định lý chưa được chứng minh và thực tế đang diễn ra.

"Ý thức hệ không quan trọng," cô nói.

Ánh mắt của Zettour hiện lên sự bối rối, thúc giục cô tiếp tục giải thích. "Không phải là lý lẽ, thưa ngài, điều quan trọng là cảm xúc của quần chúng."

Lời nói là một vũ khí như đạn dược, và cần được sử dụng một cách thích hợp. "Công tác tuyên truyền không phải là để giảm bớt sự thù địch đối với chúng ta, mà là để chia rẽ kẻ thù của chúng ta."

"Cô đang nói rằng chiến tranh này không được hỗ trợ bởi ý thức hệ?"

"Đúng vậy, thưa ngài. Trụ cột của kẻ thù là chủ nghĩa dân tộc giả danh ý thức hệ. Phê phán ý thức hệ là vô ích và không hiệu quả trong tình hình hiện tại."

Từ kinh nghiệm thực tế của mình, Tanya tin rằng tấn công vào 'ý thức hệ' là một 'phát đạn vô ích'.

Nếu có những mâu thuẫn không thể giải quyết, thì chắc chắn tiền đề đã sai. Nếu nền tảng của giả định sai lầm, dù khó chịu đến đâu, chúng ta vẫn phải thừa nhận lỗi lầm.

Trên một nền móng thối nát, làm sao có thể mong đợi xây dựng được một cấu trúc vững chắc? Việc tạo ra một đống đổ nát để phô trương sự bất tài của mình chỉ là một thú vui tự hành hạ, không thể chấp nhận được với những người có lý trí và trí tuệ hiện đại. Đối với những người như tôi, đó chỉ là một nỗi đau không thể chịu đựng được.

Chính vì thế, Tanya phải biết xấu hổ mà báo cáo lên cấp trên.

"Chúng ta chỉ có thể phân biệt giữa những người cộng sản và những người không phải cộng sản. Chúng ta không thể tiếp tục cách nhìn nhận kẻ thù chỉ dựa trên cái khung cộng sản mà không có kế hoạch gì."

"Chia để trị, phải không?"

"Trị vì? Thưa ngài, ngài đùa quá trớn rồi. Tại sao, tại sao quân đội Đế quốc lại phải 'trị vì' chứ?"

Dịch vụ hành chính, về bản chất, không phải là một ngành công nghiệp sinh lời. Tuy nhiên, việc duy trì trật tự xã hội và quản lý cơ sở hạ tầng trong các vùng chiếm đóng là điều không thể tránh khỏi.

Đến mức này, Tanya miễn cưỡng chấp nhận như một chi phí cần thiết. Dù việc thừa nhận rằng các chức năng thị trường đã tê liệt là khó chịu, nhưng cô hiểu rằng cần phải có sự bảo trì.

Tanya bổ sung thêm với sự chắc chắn trong lòng: "Trị vì" là điều không thể chấp nhận được. Ngay cả "quản lý" dưới sự cai quản quân sự cũng đã là một gánh nặng quá tải đối với cơ cấu quân sự.

"Thưa Trung tướng Zettour, nếu chúng ta cố gắng cai trị, thì quân đội sẽ kiệt quệ trước khi kịp chiến đấu. Chúng ta cần những 'người bạn tuyệt vời' có thể ủy thác công việc."

Không nhất thiết quân đội Đế quốc phải cai trị. Bánh mochi nên để thợ làm bánh mochi làm, và quản lý nhân sự cần được tối ưu hóa.

"... Đó là một ý tưởng thú vị. Nhưng vấn đề là Đế quốc có rất ít bạn bè."

"Vậy thì hãy kết bạn."

"Khi già đi, việc kết bạn mới không còn dễ dàng."

Những vấn đề phức tạp và những ràng buộc lịch sử khiến việc tìm kiếm đồng minh trở nên khó khăn. Nhưng những điều kiện tiên quyết này đôi khi cũng có những cách sử dụng khác. Thứ mà ta nghĩ là vô dụng cũng có thể trở nên hữu ích nếu nhìn từ một góc độ khác. Thuốc độc cũng có thể trở thành thuốc chữa bệnh nếu được sử dụng đúng cách.

Điều đó chỉ là một câu trả lời có thể áp dụng trong những điều kiện nhất định.

Những gì học được từ sách giáo khoa có thể giúp bạn đạt điểm cao ở trường học, nhưng ở tiền tuyến, thứ duy nhất được yêu cầu chính là kết quả. Những kẻ vẫn dám viện lý do rằng "tôi làm đúng như sách giáo khoa rồi" chắc chắn chỉ đáng bị đá bay ra khỏi đây.

"Chúng ta chắc chắn là kẻ thù của Liên bang. Nhưng kẻ thù của kẻ thù không phải lúc nào cũng là bạn."

"Ngài nói đúng," ai nghe cũng không thể không gật đầu đồng ý. Có một kẻ thù chung không có nghĩa là mọi thứ sẽ trở nên thống nhất và hòa thuận. Đây là một sự thật rõ ràng không thể phủ nhận.

"Vấn đề là," Trung tướng Zettour thở dài nặng nề, "bọn ly khai chẳng thèm phân biệt nổi chúng ta với chính quyền Liên bang."

Đây chắc chắn là một chỉ trích quan trọng đến mức không thể bỏ qua.

Trên thực tế, quân đội Đế quốc khi tiến vào đã được lệnh phải "tránh xung đột với dân địa phương trong mọi tình huống." Tuy nhiên, thực tế thì lại tràn ngập những sự cố không đáng có. Là người đã trực tiếp giám sát công việc của quân cảnh dã chiến, Tanya hiểu rõ nguyên nhân những vấn đề này hơn ai hết.

"Nguyên nhân rất đơn giản, thưa ngài. Chúng ta, về bản chất, chỉ là những kẻ ngoại lai mang vũ khí. Nếu không có người làm cầu nối, xung đột là điều không thể tránh khỏi."

Vấn đề giao tiếp hiện tại của quân đội Đế quốc chẳng khác gì một thất bại hoàn toàn. Chúng ta thiếu những người hòa giải, thiếu những nhà đàm phán đáng tin cậy, và thậm chí cả những phiên dịch viên có thể giúp việc giao tiếp suôn sẻ hơn. Điều này lẽ ra phải được chuẩn bị từ trước, nhưng giờ thực tế phũ phàng đang khiến mọi thứ trở nên rối ren hơn bao giờ hết.

"Về mặt ngôn ngữ, chúng ta hoàn toàn tụt hậu trong chiến lược chiêu dụ dân địa phương."

Nhìn lại tình hình hiện tại, Tanya cảm thấy vô cùng chán nản. Trong quân đội Đế quốc, không hề có người nào có thể đóng vai trò làm cầu nối giao tiếp với dân địa phương. Dù đã cố kéo những người từ Bộ Ngoại giao đến, thì tìm được một người từng đặt chân đến khu vực chiến sự vài lần đã là một điều hiếm hoi. Còn tìm kiếm những nhà đàm phán thực thụ thì chỉ là giấc mơ xa vời.

"Dù sao thì, ngôn ngữ chính thức của Liên bang lẽ ra phải là thứ mà các sĩ quan biết sử dụng, đúng không?"

"Đúng vậy, thưa ngài. Nhưng..." Tanya biết rõ một sự thật đau lòng. Với các phe đối lập trong Liên bang, "ngôn ngữ chính thức của Liên bang chính là ngôn ngữ của kẻ thù."

"Thưa ngài, chúng ta đang phạm phải một sai lầm nghiêm trọng: dùng ngôn ngữ của kẻ địch để nói chuyện với đồng minh tiềm năng."

"…Ý cô là, không nên sử dụng ngôn ngữ chính thức của Liên bang."

"Chính xác," Tanya đáp, với một tâm trạng nặng nề.

Cô đã ra lệnh cho Trung úy Serebryakov đi tìm những phiên dịch viên thông thạo các ngôn ngữ dân tộc thiểu số của phe đối lập. Nhưng thực tế là, những chuyên gia như vậy hầu như chỉ có trong các trường đại học Đế quốc, với vai trò là các giáo sư nghiên cứu những ngôn ngữ ít người dùng trong các chuyên ngành ngôn ngữ học. Xây dựng một hệ thống giáo dục ngôn ngữ bài bản để hỗ trợ chiến dịch thì cần rất nhiều thời gian.

Nói cách khác, việc giao tiếp từ phía chúng ta gần như đã rơi vào ngõ cụt.

"Vấn đề này không chỉ là một sai lầm chiến thuật, mà là một lỗ hổng cấu trúc trong tổ chức quân đội Đế quốc, vốn chưa bao giờ đặt trọng tâm vào các chiến dịch ở nước ngoài."

"Với tất cả sự tôn trọng, tôi không cho rằng chiến lược nội tuyến vốn là một sai lầm. Thay vào đó, vấn đề là chúng ta đã không thể duy trì chiến lược nội tuyến một cách trọn vẹn. Đây mới là nguồn cơn của mọi rắc rối."

Tanya nêu rõ một thực tế không thể phủ nhận:

"Ít nhất, chiến lược nội tuyến vẫn đang chứng minh được tính hiệu quả của nó."

"Rất tốt, Trung tá Degurechaff. Vậy thì biện pháp giải quyết hiện tại là gì?"

"Nhiệm vụ đã quá rõ ràng. Chúng ta buộc phải học cách thích nghi với các chiến dịch ngoài lãnh thổ, dù có muốn hay không. Và trong bối cảnh hiện tại, chúng ta cần nhanh chóng cải thiện khả năng quản lý quân sự trong các vùng bị chiếm đóng, đồng thời xây dựng những mối quan hệ mới trong khu vực này."

"Ở tình hình hiện tại, liệu cô có thực sự tin rằng chúng ta có thể tìm được những người phù hợp không?"

"Thưa ngài, tôi tin điều đó là khả thi."

Trung tướng Zettour, ánh mắt sắc bén thúc giục Tanya giải thích thêm.

"Vậy, tiêu chí so sánh của cô là gì?"

Vẫn giữ thói quen nhìn chằm chằm như đang cố phân tích mọi thứ, Zettour không hề nhúc nhích. Tanya, tuân theo logic của mình, bắt đầu nói:

"Thưa Trung tướng Zettour, thực tế là giữa chúng ta và dân cư vùng chiếm đóng đã nảy sinh những vấn đề. Kết quả là, dân địa phương cũng đã phần nào bị cuốn vào vòng xoáy của máu và thù hận. Nhưng, may mắn thay, họ vẫn còn giữ được chút lý trí nhờ có sự so sánh."

"So sánh gì?"

"Đó chính là cách quản lý của Liên bang. Nói thẳng ra, giữa những người cộng sản tàn nhẫn và quân đội Đế quốc thô bạo, tôi tin rằng dân chúng sẽ chọn cái ác ít hơn. Dù gì họ cũng vẫn đủ sáng suốt để thay đổi quan điểm của mình."

"Đó là một cách tiếp cận khá táo bạo. Được rồi, giả sử chúng ta có thể hợp tác với họ. Vậy cô định sử dụng các thế lực địa phương trong chính sách chiếm đóng sao?"

"Đúng vậy, thưa ngài."

Zettour suy nghĩ trong giây lát, rồi khẽ lắc đầu, có vẻ không đồng tình.

"Nói thẳng nhé, tôi không thấy điều đó mang lại lợi ích gì. Từ góc độ hậu cần ở hậu phương, tôi phải khẳng định một điều: thà đối phó với kẻ địch rõ ràng còn dễ dàng hơn phải xử lý những kẻ mập mờ, không biết là bạn hay thù."

Những lời nói ấy chỉ khiến Tanya thở dài. Nếu đó là lời của một kẻ ngu ngốc, cô có thể dễ dàng phớt lờ hoặc cười nhạo. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, Zettour là một chiến lược gia xuất sắc, không phải loại người phát ngôn những điều vô căn cứ.

"Thưa ngài, nhận xét của ngài hoàn toàn hợp lý. Nhưng nếu phải phân loại, tôi tin rằng họ nghiêng về phía đồng minh hơn là kẻ thù."

Zettour là một nhân vật ưu tú, người không chỉ hiểu rõ chiến trường mà còn nắm chắc tình hình hậu cần và điều hành mối quan hệ giữa quân đội và chính quyền một cách tinh tế. Là một trong số ít người có thể xoa dịu sự đối đầu giữa quan chức dân sự và quân sự ở thủ đô Berun.

Vậy mà ngay cả ông ta, trong tình trạng tỉnh táo, lại đưa ra một kết luận có vẻ sai lệch thế này sao?

"Được rồi, Trung tá Degurechaff. Tôi không nghĩ ngày này lại đến, nhưng cô nên xem qua đống báo cáo của quân cảnh dã chiến. Cô có thể chọn bất kỳ cái nào mà cô thích."

"Ý ngài là những kẻ mà chúng ta không chắc là bạn hay thù?"

"Chính xác."

Tanya cố kìm nén cảm giác bất lực khi tiếp tục giải thích:

"Nguyên nhân thì rất đơn giản, thưa ngài. Phần lớn quân cảnh dã chiến thậm chí không nói được ngôn ngữ chính thức của Liên bang. Họ dựa vào những phiên dịch viên thiếu chuyên nghiệp, hoặc mang đầy định kiến. Những sai lầm ấy đã dẫn đến những hiểu lầm hoàn toàn không đáng có."

"Thứ chúng ta cần chính là sự rõ ràng trong việc phân biệt bạn và thù. Dân tộc thiểu số trong Liên bang phần lớn thù hận Đảng Cộng sản hơn là chúng ta. Xây dựng liên minh với họ không phải là điều bất khả thi."

Nói đến đây, Tanya khẳng định với ánh mắt tự tin, nhìn thẳng vào vị chỉ huy của mình:

"Thay vì dùng những con chó săn tinh nhuệ nhưng thiếu nhạy bén, tại sao chúng ta không thuê một thợ săn địa phương, người hiểu rõ tình hình nơi này?"

Zettour im lặng vài giây, lông mày nhíu lại trước khi chậm rãi nói:

"Nghe có vẻ hợp lý. Nhưng vấn đề là, liệu chúng ta có thể tìm được một 'thợ săn' như vậy không? Degurechaff, cô hẳn đã có kế hoạch rồi, phải không?"

"Thưa ngài, tôi tin rằng cơ cấu cảnh sát khu vựchội đồng dân tộc ở vùng chiếm đóng là lựa chọn khả thi nhất."

"Thú vị đấy, Trung tá.""Thưa ngài, xin hãy lắng nghe tôi. Tất cả đều là sai lầm!"

Nếu tiền đề đã sai, dù chiến lược gia có sắc sảo và thận trọng đến đâu, họ vẫn sẽ đưa ra quyết định sai lầm. Không thể nào nắm bắt chính xác tình hình thực tế. Trong quá trình hoạch định chiến lược, bất kỳ sai sót nào trong thông tin phân tích đều dẫn đến những sai lệch nghiêm trọng. Thông tin chính xác về tình hình địa phương và hiểu biết đúng đắn về bối cảnh phải là nền tảng của mọi quyết định.

"Tôi xin phát biểu dựa trên kinh nghiệm trực tiếp giao tranh với lực lượng du kích. Đúng là du kích có tồn tại, nhưng không phải ai cầm vũ khí cũng là du kích."

Quân nhân không bao giờ do dự khi cầm lấy vũ khí. Họ được đào tạo để chiến đấu, được trang bị bằng chi phí quốc gia, và được rèn luyện tính kỷ luật để chuẩn bị cho chiến tranh. Điều này là hiển nhiên và bắt buộc. Nhưng với dân thường, tình hình lại khác.

"Thưa ngài, xin ngài hiểu cho. Trong khu vực này, vũ khí được xem như công cụ tự vệ. Đội quân cảnh của chúng ta thường bắt gặp và nghi ngờ những người sở hữu vũ khí tự vệ, nhưng họ không hiểu cách mà hành động này bị diễn giải. Nếu nói một cách cực đoan, chẳng khác gì bắt giữ tất cả những người khóa cửa nhà mình chỉ vì họ muốn bảo vệ tài sản của mình!"

"…Tự vệ? Trung tá, ý cô là những khẩu súng trường quân sự hay súng tiểu liên do quân đội Liên bang sản xuất à?"

"Thưa ngài! Chính điều đó là gốc rễ của mọi hiểu lầm!"

Tanya nhấn mạnh, không hề dao động trước ánh mắt sắc bén của Zettour:

"Xin hãy xem xét tình hình hiện tại! Nguồn vũ khí khả dụng chủ yếu là những gì mà quân đội Liên bang bỏ lại. Chẳng lẽ chúng ta thực sự mong đợi người dân địa phương nhập khẩu những khẩu súng ngắn đắt tiền từ các quốc gia trung lập kèm theo giấy chứng nhận hợp pháp sao?"

Quy luật thị trường rất đơn giản. Thứ gì dư thừa sẽ trở thành phổ biến. Số lượng lớn vũ khí do quân đội Liên bang bỏ lại trở thành nguồn cung rẻ tiền mà người dân có thể dễ dàng tiếp cận. Việc họ chọn những loại vũ khí có nguồn cung đạn dồi dào thay vì súng ngắn tự động đắt đỏ là điều tất yếu. Nếu dùng một cách nói khó chịu, đó là "bàn tay vô hình của thị trường" đang vận hành.

"Số người dùng vũ khí chống lại quân đội Đế quốc thực sự chỉ là một nhóm thiểu số nhỏ bé. Thưa ngài, đây là kết quả của một hệ thống được dàn dựng có chủ ý bởi số ít người này."

Câu nói "không có lửa làm sao có khói" là đúng, nhưng cũng có những kẻ ác tâm cố ý biến một đốm lửa nhỏ thành đại hỏa hoạn. Đám tàn dư Bolshevik đã và đang sống sót nhờ vào những mưu mô như thế, đúng như sở trường của chúng.

"Có những kẻ kích động bất hòa và gieo rắc nghi ngờ giữa hai bên nhằm khơi dậy phong trào phản kháng. Vấn đề nghiêm trọng nằm ở chỗ chúng ta đã thất bại trong việc xác định và xử lý các phần tử này, chứ không phải chính phong trào phản kháng."

Tanya, không hề nao núng, tiếp tục:

"Thưa ngài, xin hãy lắng nghe. Tất cả những gì chúng ta đang dựa vào đều là sai lầm từ gốc rễ!"

Nếu tiền đề đã sai, mọi phân tích và kết luận sau đó đều trở nên vô nghĩa. Zettour, dù là một chiến lược gia sắc bén, cũng không thể hiểu đúng tình hình khi những dữ liệu cơ bản đã bị bóp méo.

"Đây là lý do mà tôi, dựa trên kinh nghiệm thực chiến, khẳng định: không phải ai cầm vũ khí cũng là kẻ địch."

"Phần lớn chỉ là những kẻ cơ hội thôi sao? Vậy tức là, những kẻ kích động thuộc các tế bào của Liên bang không thực sự được người dân ủng hộ, phải không?"

Với nét mặt méo mó vì suy tư, Trung tướng Zettour gật đầu chậm rãi, khẽ thốt lên một tiếng "Ra là vậy."

Dù sở hữu trí tuệ sắc bén, ông cũng không thể tránh khỏi việc bị đánh lạc hướng nếu tiền đề thông tin sai lầm.

Một khoảng lặng kéo dài.

Zettour ngẩng mặt lên trời, dường như định nói điều gì đó nhưng rồi nuốt lời, thay vào đó chỉ thở dài sâu lắng:

"…Tôi đã hiểu. Tóm lại là thế này: chúng ta là một thể thống nhất. Nhưng kẻ địch thì có thực sự là một thể thống nhất không?"

Nghe vậy, Tanya cảm thấy một chút nhẹ nhõm trong lòng.

Đúng như mong đợi, trí tuệ của Trung tướng Zettour không hề bị che mờ.

Việc ông có thể ngay lập tức nhận ra bản chất của việc thiểu số kiểm soát đa số bằng sự sợ hãi khiến Tanya cũng phải thầm kinh ngạc.

"Vâng, thưa ngài Zettour. Phần lớn binh lính của kẻ địch mà chúng tôi đã thẩm vấn ngoài chiến trường không chiến đấu 'vì đảng', mà là 'vì dân tộc của họ'. Nói cách khác, chúng ta không cần phải dính líu vào ảo tưởng rằng 'toàn bộ công dân Liên bang là kẻ địch'."

Zettour khẽ nhíu mày, đáp lại:

"…Thật là một tin đau đầu. Nếu đó là sự thật, chúng ta đúng là lũ hề. Lại một lần nữa, chúng ta mắc phải sai lầm chiến lược mà đáng lẽ có thể tránh được."

"Tôi xin nhận lỗi vì sự chậm trễ trong việc nắm bắt thực tế. Về việc xử lý trách nhiệm của tôi, xin hoàn toàn giao phó cho ngài."

"Không cần thiết, không cần thiết đâu. Ngược lại, cô đã nhận ra điều này rất đúng lúc. Thật may mắn vì chúng ta biết được trước khi quá muộn. Cứ xem như đây là một sự may mắn đi."

Những lời an ủi ấy vừa khiến Tanya biết ơn, nhưng đồng thời cũng làm cô càng nhận thức rõ hơn sự bất lực của mình.

Thành kiến với chủ nghĩa cộng sản đã làm nảy sinh vấn đề này.

Những định kiến chủ quan đã bóp méo nghiêm trọng kết quả quan sát, vốn dĩ cần phải khách quan.

Ngay cả lời an ủi của Zettour cũng không thể xóa nhòa mức độ nghiêm trọng của sai lầm này.

"May mắn" - chỉ là một từ gợi đến sự không chắc chắn. Được cứu nhờ "may mắn"?

Đó không phải là điều có thể gọi là cứu cánh.

Sai lầm đã phạm phải một lần, nếu không được xử lý triệt để, chắc chắn sẽ tái diễn.

Zettour dõi theo bóng lưng của Trung tá Degurechaff khi cô rời khỏi phòng, để lại một cái chào đầy kính cẩn.

32ddbc86-0962-4809-847a-c1157f7ea673.jpg

Không nói lời nào, Trung tướng Zettour chìm vào dòng suy nghĩ.

Ông đặt nghi vấn lên những tiền đề thông tin và xem xét tình hình. Nếu cần thiết, phải hành động ngay lập tức. Không thể để tái diễn một sai lầm đã từng xảy ra.

Với quyết tâm đó, Zettour cầm lấy ống nghe, ra lệnh một cách khẩn cấp. Chẳng mấy chốc, Đại tá Rerugen xuất hiện, và Zettour lập tức đi thẳng vào vấn đề.

"Đại tá Rerugen, ta muốn thay đổi địa điểm cho chuyến thị sát sắp tới."

Rerugen hỏi lại với vẻ thận trọng:

"Ngài không định đi phía Nam để giám sát chiến dịch của Tướng Rommel sao?"

Phản ứng nhạy bén, mang tính chuyên nghiệp cao. Trong vai trò một sĩ quan của Cục Tác chiến, việc liên tưởng đến tình hình đình trệ gần đây ở lục địa phía Nam là điều dễ hiểu. Nhưng Zettour lắc đầu, gạt bỏ suy nghĩ ấy:

"Không, là phía Đông."

"Phía Đông sao? Chúng ta vốn đã có kế hoạch rời đi trong vài ngày tới cùng đoàn thị sát của Cục Tác chiến. Ngài muốn đi cùng chứ?"

Đại tá Rerugen không chỉ phản ứng nhanh mà còn đưa ra các phương án thích hợp ngay lập tức. Ở vai trò hỗ trợ và điều phối, ông là hình mẫu lý tưởng của một sĩ quan tham mưu. Nhưng ngay cả một người xuất sắc như Rerugen cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi các tiền đề sai lầm.

Zettour ngắt lời, tiếp tục với giọng kiên quyết:

"Ta định mượn ngươi từ Cục Tác chiến, nhưng ta sẽ không đi cùng đoàn thị sát. Ta sẽ giải thích với Trung tướng Rudeldorf. Ngươi chỉ cần chuẩn bị mọi thứ."

"Rõ! Nhưng tôi có thể hỏi mục đích của chuyến đi này là gì không, thưa ngài?"

Zettour trầm ngâm một lúc, rồi khẽ nói:

"Chuyến đi này liên quan đến vấn đề hậu cần và một nhiệm vụ mật. À, còn một việc nữa: hãy tìm một chuyên gia về vấn đề dân tộc cho ta, càng sớm càng tốt."

"Rõ. Có cần tôi phối hợp với các nhân sự từ hội đồng dân tộc của Cục Tác chiến không?"

"Cũng được, nhưng phải đảm bảo chặt chẽ vấn đề an ninh. Nếu có thể, hãy chọn người có chứng chỉ về bảo mật."

Rerugen ngập ngừng, rồi hỏi thẳng:

"Xin lỗi, thưa ngài... Có phải nhiệm vụ mật này liên quan đến vấn đề dân tộc không?"

"Ta không phủ nhận điều đó. Cứ xem nó là một phần của chiến dịch bình định đi. Ta muốn cân nhắc việc tiếp xúc với các lãnh đạo địa phương."

"Rõ. Tôi sẽ cố tìm người có liên hệ với khu vực đó và đảm bảo đáng tin cậy. Thời hạn là bao lâu, thưa ngài?"

Zettour khẽ mỉm cười trước sự nhanh nhạy của Rerugen, nhưng vẫn giao nhiệm vụ một cách nghiêm túc:

"Trước đầu tuần sau."

"Thưa ngài!"

Rerugen khẽ nhíu mày, biểu lộ sự bối rối. Hôm nay đã là thứ Sáu, và ông được giao nhiệm vụ phải hoàn thành mọi thứ trước thứ Hai. Đó là một yêu cầu không dễ dàng, nhưng Zettour không nhượng bộ.

"Chiến tranh không cho phép chúng ta chậm trễ. Hãy dùng mọi nguồn lực cần thiết. Đừng chần chừ nữa, bắt đầu hành động ngay đi."

"Rõ, tôi sẽ thực hiện ngay lập tức."

Ngày X - Tháng 9 năm 1926 - Năm thống nhất - Ngoại ô thủ đô Londinium của Liên hợp Vương quốc

Trong thời chiến, nhiệm vụ của cục tình báo là vô cùng đa dạng—bao gồm việc chia sẻ và phân tích thông tin giữa các cơ quan cấp quốc gia, thu thập tin tình báo sống từ hiện trường và nhiều lĩnh vực khác.

Ngay cả chỉ xét đến thông tin cần thu thập thôi cũng đã bao gồm quân sự, kinh tế, chính trị, dư luận xã hội, công nghệ v.v... Một thế giới bị phân mảnh đến mức nếu không phải chuyên gia thì không thể phân biệt nổi thật giả.

Hỗn loạn, hỗn loạn, lại còn hỗn loạn.

Việc lọc ra được những viên ngọc quý giữa đống ngọc đá lẫn lộn như thế không hề dễ dàng. Phương thức thu thập cũng phức tạp không kém, phân chia thành hai hướng lớn: tín hiệu tình báo (SIGINT) và nhân sự tình báo (HUMINT).

Dù trong thời chiến, các ràng buộc ngân sách dần được nới lỏng, thì sự thực là nguồn lực tài chính vẫn còn cách rất xa mức “dồi dào.” Họ buộc phải chắt bóp, xoay sở từng chút một.

Và chỉ riêng việc xoa dịu các lãnh đạo từng bộ phận—những người luôn tin chắc rằng “phòng của mình mới là ưu tiên hàng đầu cần được cấp ngân sách”—cũng đã là một việc khiến người ta phải thở dài.

Đội ngũ nhân sự của một cơ quan tình báo ưu tú luôn rất “đậm cá tính,” đến mức khi gặp được một người có tinh thần hợp tác thì chỉ muốn ngước mặt lên trời tạ ơn thần linh.

Chỉ một cuộc giằng co vi tế giữa cục tình báo và Bộ Ngoại giao thôi cũng đủ khiến người ta đau dạ dày.

Thế nhưng, Thiếu tướng Harbagram—người đứng đầu cục tình báo của Liên hợp Vương quốc—lại chấp nhận tất cả những điều đó. Và thực tế là, ông đã chấp nhận suốt bao lâu nay.

Chính là vì ông tin rằng sự điều phối âm thầm từng chút một sẽ là thứ tạo ra thành quả thực sự. Và dù chỉ là chút ít, thành quả đó cũng đã bắt đầu hé lộ.

Ở thời điểm hiện tại, việc thu thập thông tin quân sự qua SIGINT diễn ra thuận lợi. Việc nhận diện địch, chặn tín hiệu, giải mã—ngoại trừ việc tiêu tốn một lượng kinh phí khổng lồ—thì đều đạt hiệu quả xuất sắc.

Về phần HUMINT, hệ thống theo dõi các mục tiêu đã được thiết lập hoàn chỉnh. Dù tại lãnh thổ Đế quốc vẫn còn nhiều điểm yếu, thì ít nhất cũng đã bao phủ được toàn bộ cựu Cộng hoà.

Cục tình báo cũng đã nắm được phần nào hoạt động của các đơn vị quân đội Đế quốc đang rải rác ở nhiều nơi.

Ngay cả chiến trường lục địa phía Nam, nơi từng là vấn đề nan giải giờ cũng đã được giải quyết bằng cách phái đi những thành viên chủ chốt. Dù là một ông già thường hay càm ràm phàn nàn, nhưng ông ta lại cực kỳ lì lợm.

Dù chỉ là những cuộc tấn công quy mô nhỏ nhằm vào tuyến hậu cần của kẻ địch, nhưng ông ta vẫn liên tục đạt được thành công. …Việc xây dựng mạng lưới liên kết với các bộ lạc du mục cũng đang tiến triển tốt. Tạm thời thì không có gì đáng lo ngại.

Dù vậy, vẫn phải nói thêm: tình hình vẫn chưa hề ổn.

Ngân sách thiếu thốn, mâu thuẫn giữa nội bộ và các bên ngoài, tranh chấp với các phòng ban mang nặng tư duy quan liêu, thậm chí là những nghi vấn có cơ sở về khả năng gián điệp đã thâm nhập vào cục tình báo, tất cả như quấn lấy ông mỗi đêm.

Thiếu tướng Harbagram đã quá quen với cảm giác chật vật như một ông giám đốc công ty sắp phá sản.

Và nếu bỏ qua chuyện "chuột chui" kia đi, thì vẫn còn một vấn đề nữa, cái vấn đề u ám cứ đeo bám ông từ đầu cuộc chiến đến giờ, nay đã trở thành một khối đá không thể lay chuyển.

“Không chỉ ngân sách, vấn đề lớn nhất vẫn là nhân lực. Bộ phận tình báo hiện tại quá thiếu người. Thế này thì… chẳng làm ăn được gì cả…”

Người. Nhân sự. Đó mới là thứ đang thiếu hụt nhất.

Có hai nguyên nhân chính.

Thiếu tướng Harbagram vừa rít một hơi xì gà, vừa không khỏi than thở về tình trạng thiếu nhân sự. Không chỉ thiếu nhân viên hiện trường, mà cả cấp quản lý và chuyên gia cấp cao cũng đều cực kỳ khan hiếm.

Thực ra, kể từ khi chiến tranh nổ ra, cục tình báo đã phải đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực nghiêm trọng. Nhưng nếu nói đúng ra, thì không phải là “đã thiếu từ đầu.”

Mà chính vì bước vào chiến tranh, họ mới rơi vào tình cảnh thiếu hụt trầm trọng.

Một trong những lý do lớn nhất: tổn thất do thương vong.

Đội tác chiến chủ lực, gồm toàn những nhân viên kỳ cựu đã bị điều động đến tham gia chiến dịch phối hợp với Liên minh Hiệp ước và Cộng hoà. Và đó là một sai lầm nghiêm trọng.

Tất cả họ đều bị tiêu diệt bởi một đơn vị đặc biệt của Đế quốc, được xác định là Tiểu đoàn Pháp Sư Không quân 203.

Việc mất đi các nhân viên dày dạn kinh nghiệm đó đã gây ra tổn thất to lớn không thể đo đếm.

Xây dựng lại tổ chức, đào tạo nhân sự mới, tái thiết mạng lưới tình báo, mọi việc đều chịu thiệt hại nặng nề đến mức không thể không nuối tiếc.

Bởi vì Đế quốc đã tung đòn tấn công đúng vào thời điểm hiểm hóc nhất. Ngay cả Harbagram cũng phải thừa nhận rằng…

Anh ta không muốn nghi ngờ cấp dưới của mình… nhưng cũng không thể không thừa nhận: chắc chắn có một con chuột chũi đã thâm nhập vào hàng ngũ.

Những chuỗi may mắn gần đây của Đế Quốc là quá bất thường để có thể gọi là ngẫu nhiên.

Cái đuôi.

Vấn đề là đến giờ vẫn chưa tóm được cái đuôi của nó. Ngay khi phát hiện ra, dù bằng cách nào, con chuột trơ tráo ấy nhất định phải bị tiêu diệt.

Chỉ riêng chuyện đó thôi cũng đã khiến đầu óc đau nhức, nhưng càng đau hơn nữa là cách Lục quân và Hải quân phản ứng với nguồn nhân lực còn lại.

Vấn đề thứ hai chính là việc tất cả các đặc vụ kỳ cựu được điều từ Lục và Hải quân đều đã bị hai bên lần lượt thu hồi lại.

“…Khốn thật, không ngờ lại bị chính đồng minh kéo chân.”

Lục và Hải quân đang rút lại một loạt nhân sự từng được điều đến, với lý do cần tái triển khai họ ra tiền tuyến. Than phiền cũng là điều dễ hiểu.

Những nhân sự mà Cục Tình báo thực sự cần thì lại chẳng có ai đáng tin để thay thế.

Về lý mà nói, lập luận của họ không sai. Nhưng nếu cứ bị cướp nhân sự một cách gần như cưỡng ép như vậy… thì Cục Tình báo chẳng mấy chốc nữa sẽ gần như tê liệt hoàn toàn.

Bị đánh hội đồng từ cả kẻ thù lẫn chính quân đội mình, Cục đang rơi vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng các đặc vụ kỳ cựu.

Kết quả là, chỉ không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu, Cục Tình báo đã gần như bị hạ gục bởi tổn thất nghiêm trọng.

Điều đáng nguyền rủa là tình trạng hỗn loạn do việc điều động nhân sự cũng đang gây trở ngại lớn cho việc săn chuột chũi.

Vốn dĩ họ đã đau đầu vì thiếu nhân sự tin cậy, giờ lại thêm chuyện này nữa.

Mặc dù những thông tin tuyệt mật như mật mã quân sự tối cao của Đế Quốc vẫn chưa bị rò rỉ, nhưng tất cả các loại bí mật khác gần như đã bị tuồn ra ngoài hết.

Không,với mức độ lỏng lẻo trong công tác phản gián như hiện tại, ngay cả các tối mật ấy cũng có thể bị rò rỉ bất cứ lúc nào.

Trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực như vậy, các yêu cầu từ khắp nơi vẫn dồn dập đổ về Cục Tình báo.

Bộ Ngoại giao thì yêu cầu “điều tra khẩn cấp về quan hệ hợp tác giữa Đế Quốc và các quốc gia khác.”

Bộ Quân nhu thì ra lệnh “phân tích triển vọng của chiến dịch cắt đứt thương mại của quân đội Đế Quốc.”

Bộ Hải quân thì đến mức gào lên đòi phải “thu thập toàn bộ thông tin quân sự liên quan đến hạm đội và tàu ngầm của Đế Quốc.”

Còn Bộ Lục quân thì thản nhiên yêu cầu “nắm bắt thực trạng của cả quân đội Liên bang và Đế Quốc tại mặt trận phía Đông, kèm theo thông tin chi tiết về tình hình thực địa.”

Ngay cả Nội các cũng liên tục gửi yêu cầu về các lĩnh vực liên quan đến chức năng và phạm vi của mình.

Tất nhiên, Thiếu tướng Habergram hiểu rõ rằng đó là trách nhiệm mang tính yêu nước và quan trọng của họ. Là một công chức, ông cũng tôn trọng điều đó.

Tuy nhiên, ông vẫn không thể không thở dài.

Bộ phận nào cũng tin chắc rằng yêu cầu của mình là ưu tiên hàng đầu đối với sự tồn vong quốc gia, và không ngần ngại khăng khăng đòi được xử lý trước.

Dĩ nhiên, nếu có thể, ông cũng muốn hợp tác. Nhưng ông chỉ muốn hét lên rằng “chúng tôi không có đủ người để làm!”

Dù có kêu gào đòi cử đến những nhân sự đã qua kiểm tra an ninh và có thể tin tưởng thì cũng chẳng có hồi âm.

Ủy ban phòng vệ của Vương quốc Liên hợp chỉ đưa ra một mệnh lệnh lạnh lùng: “Tự xoay sở với những gì đang có.”

Đến mức chỉ muốn ôm đầu than trời.

Không, thật ra, cũng chẳng còn cách nào khác ngoài việc ôm đầu.

Thứ nhất, để đưa được nhân viên tình báo ra đại lục, thì số lượng quân bài trong tay là quá ít.

Vì vậy, đã có kế hoạch đào tạo lứa tân binh mới để chuyển hóa thành chiến lực. Xét về mặt lý thuyết, đó là phản ứng hoàn toàn hợp lý.

Nếu... người ta có thể làm ngơ trước vấn đề còn lớn hơn: lũ tân binh đầy triển vọng ấy lại thi nhau tình nguyện ra tiền tuyến.

Bản thân Thiếu tướng Habergram cũng xuất thân từ một gia đình quý tộc.

Ông hiểu rõ tinh thần của những thanh niên ưu tú đến từ danh môn.

Với tư cách là người đi trước, ông cũng không khỏi cảm thấy ấm lòng khi nhìn thấy một biểu hiện rõ ràng của noblesse oblige.

Cảnh tượng những chàng trai trẻ từ giảng đường đại học bước ra, tình nguyện lên đường vì Tổ quốc, chỉ có thể cúi đầu trước quyết tâm và ý chí đó mà tỏ lòng kính trọng.

Nếu phải chỉ ra điều không thể làm ngơ, thì đó là việc cái gọi là “quyết tâm” ấy của những thanh niên sẵn sàng hiến thân vì đất nước… lại quá mức vững chắc một cách cay đắng.

Khi những sinh viên ưu tú đồng loạt gia nhập quân đội với mong muốn thực hiện noblesse oblige, họ đã xin vào những vị trí như:

“Không quân.”

“Đơn vị pháp sư.”

“Thủy quân.”

“Lục quân.”

“…Nói là hợp lý thì đúng là hợp lý.”

Vấn đề khiến những nhân viên tuyển mộ phải cùng lắc đầu trăn trở — chính là sự thuần khiết của tuổi trẻ. Dẫu phải thừa nhận rằng tinh thần của họ thật cao quý, song điều đó lại càng làm nỗi lo của những người đứng đầu thêm chồng chất.

Rốt cuộc, lựa chọn khả thi nhất là nhắm vào các sĩ quan thương tật, những người bị cấm trở lại tiền tuyến. Bởi nhân tài thực thụ thường chính là những kẻ mang trong mình ý chí bất khuất, sẵn sàng vùng lên sau thất bại.

Trong thực chiến, những vị sĩ quan bị thương nhưng tự nguyện trở lại chiến địa đã chứng tỏ mình là lực lượng đặc biệt quý giá đối với Cục Tình báo. Thiếu tướng Habergram tin chắc rằng, từng người trong số họ có giá trị cao hơn vàng ròng.

Thế nhưng, chính “vết thương” lại trở thành điểm nhạy cảm khó che giấu, khiến việc cử họ làm đặc vụ ở nước ngoài trở nên nan giải. Mặc dù binh sĩ tật nguyền không hiếm, song ở các quốc gia trung lập hay đối địch, những nhân sự dễ gây chú ý nhất phải được tránh xa.

“…Hay là thử tuyển đặc vụ nữ đi nhỉ?”

Ông chợt nghĩ: nếu bên địch cũng tiến hành tổng động viên, phụ nữ lại ít bị nghi ngờ hơn. Đàn ông trưởng thành đều bị lùa ra tiền tuyến, trong khi phụ nữ ở hậu phương đang dần trở thành lực lượng lao động chủ chốt — đây là một cơ hội đáng cân nhắc.

Ý tưởng này không tồi.

“Ừm… nhưng nếu thả họ bằng dù xuống vùng địch thì…”

Liệu Bộ Tham mưu hay Whitehall có chấp thuận kế hoạch này không? Đây vốn là chiến dịch mật tuyệt đối, có lẽ ông có thể tự quyết triển khai trong phạm vi thẩm quyền cá nhân. Nhưng nếu họ sa vào tay địch, nguy cơ bị lợi dụng làm công cụ tuyên truyền là rất lớn. Tính toán đến hậu quả chính trị nếu thất bại, việc hành động đơn phương rõ ràng đầy rủi ro.

Càng suy ngẫm, càng thấy những yếu tố cần cân nhắc chất chồng.

Khối lượng công việc ngày một mở rộng, trong khi nhân sự chuyên môn của Cục lại ngày càng khan hiếm.

“Thật không như ý.”

Thiếu tướng Habergram bực dọc gõ nhịp lên mặt bàn. Nhân lực thiết yếu của Cục Tình báo đang cạn kiệt, còn khối lượng công việc thì tăng theo cấp số nhân, dù là quý ông phong nhã, ông cũng không khỏi than thở.

Nhưng trong thời chiến, làm gì có thời gian để ngẫm nghĩ.

Bỗng viên thư ký thân tín xuất hiện ở cửa, trên tay là chồng tài liệu cao như ngọn đồi nhỏ. Với tiếng “đùng”, cả đống hồ sơ được đặt ầm xuống bàn.

Ông vừa định ừ hừ thì chợt nhận thấy một phong bì do cấp dưới đưa ra.

“Xin lỗi, thưa Cục trưởng. Đây là công văn khẩn từ Ủy ban Phòng vệ Liên hợp quốc.”

“Ủy ban Phòng vệ à? À, chắc là giấy triệu tập họp.”

Vừa nghĩ thế, Habergram xé phong bì, mắt lướt qua nội dung thì đính chính lại.

“Không, đây là thư mời tham dự hội nghị đấy. Lạ thật.”

Việc mời đại diện Cục Tình báo tham dự một hội nghị có biên bản chính thức khiến ông không khỏi thắc mắc Thủ tướng đang có ý đồ gì. Dẫu vậy, lệnh là lệnh.

Khi mệnh lệnh được ban ra đúng thẩm quyền và quy trình, thì không thể chống lệnh.

“Chuẩn bị cho tôi tham dự Hội nghị Phòng vệ Liên hợp quốc vào ngày mai. Đây là yêu cầu chính thức từ Văn phòng Thủ tướng. Dù bận đến đâu cũng phải đi. Thu xếp xe giúp tôi.”

Thực lòng ông đang tự hỏi: “Lần này họ lại định ‘đánh úp’ điều gì nữa đây…?”

Ngày X - tháng 9 năm 1926 Năm thống nhất - Thủ đô Londinium của Vương quốc Liên hợp - khu vực quanh Whitehall

Tại Hội nghị Phòng vệ Liên hợp quốc.

Chỉ cần nhìn dàn quan chức ngồi quanh bàn là đủ hiểu tình hình khủng hoảng của Vương quốc Liên hợp.

Gạt tàn thuốc đầy ắp tàn,

những đại diện Lục – Hải – Không quân chẳng buồn che giấu vẻ mỏi mệt.

Và trước mắt là hàng loạt quan chức mang bộ mặt như người ốm, những công bộc đã kiệt quệ.

Nhưng giữa họ, chỉ duy nhất một người đàn ông, tựa như chú chó bò-lu-đốc ngồi thoải mái, vẫn giữ gương mặt hồng hào. Có thể cho rằng ông ta kiêu ngạo ngông cuồng, hoặc cũng có thể xem là một khối chí khí đáng tin cậy tùy góc nhìn.

Ông không ai khác chính là nhân vật đứng đầu Hội nghị Phòng vệ Vương quốc Liên hợp, Thủ tướng Chabble, vị quan thân cận nhất của Quốc vương.

“Quốc vương hạ chiếu, Ngài mong muốn chuyển hướng chiến trường sang phía Liên bang.”

Ánh mắt chán chường của những quan chức khi nhìn lên hàng ghế trên nói lên rằng: nếu làm được như vậy thì đã không cực khổ đến thế. Ai cũng thầm nghĩ vậy, ngay cả Thiếu tướng Habergram cũng đồng cảm.

“Nếu cần, ta sẵn sàng liên minh với quỷ dữ. Nhưng thử hỏi có gì sai khi ta thẳng thắn nói rằng ‘ta còn vui hơn khi nhìn quỷ đánh nhau với quỷ’?”

Thủ tướng Chabble hùng hồn phát ngôn mà chẳng hề ngại ngùng. Đó chính là sức mạnh của ông.

Trong chính trường, ông bị gọi là kẻ cuồng chiến điên cuồng, hoặc là chiến sĩ đế quốc chủ nghĩa cứng rắn, tuỳ người mà đặt danh xưng. Công chúng thì tôn xưng ông là “Chú chó bò-lu-đốc”.

“Ngài đã trở thành một tín đồ cuồng nhiệt thật rồi.”

“Thật không ngờ, Ngài còn chuẩn bị cả ‘chiếc thuyền’ sẵn sàng.”

Lời mỉa mai sâu cay ấy hoàn toàn không làm lay chuyển trái tim thép.

“Quý vị, xin thôi tán dương và những giai thoại. Điều chúng ta cần bây giờ là thời gian và lực lượng để bảo vệ quê hương.”

Lời nói bình thản nhưng sắc lạnh, khiến mọi mỉa mai đều mất tác dụng. Quả thật quá ngỡ ngàng trước trái tim thép ấy.

“Xin báo cáo tình hình hiện tại.”

Viên đại diện Bộ Không quân đứng lên, cố nén cơn choáng, trình bày tóm lược về tình hình chiến sự: cuộc đụng độ với hạm đội không quân và đơn vị pháp sư của quân Đế quốc quy mô lớn hơn rất nhiều so với dự báo.

“Đã xảy ra nhiều trận không chiến quy mô lớn, nhưng Hạm đội Không quân Hoàng gia vẫn duy trì ưu thế trên không.”

Trận đánh chặn kẻ thù tràn xuống phía nam lãnh thổ vô cùng khốc liệt. Hầu hết kẻ địch xuất phát từ căn cứ không quân cũ của Cộng hòa, thật mỉa mai khi phải trả giá cho sự sụp đổ của họ. Dẫu vậy, hệ thống phòng không vẫn hoạt động hiệu quả. Habergram vừa thở phào…

“Cụ thể ra sao?”

Một giọng nam cất lên cùng vẻ kìm nén cơn đau dạ dày, đó chính là Tổng Giám đốc Không quân.

“Với tư cách Tổng Giám đốc, tôi xin nói thêm: tình hình hiện nay chẳng khác nào đang xài dần đến tiền tiết kiệm. Chúng ta chỉ mới chưa phá sản mà thôi.”

“Tổn thất máy bay, phi công, cùng lực lượng pháp sư hỗ trợ đang tăng theo cấp số nhân. Chúng tôi đang bổ sung tạm thời bằng lính tình nguyện lưu vong và sinh viên đại học…”

Mất đi binh lính kỳ cựu, bù bằng lính mới – đó chính là mâu thuẫn mà Habergram và Cục Tình báo đang đối mặt.

Ông không khỏi sững sờ khi nhận ra rằng, ngay cả lực lượng ưu đãi nhất – Không quân – cũng rơi vào tình trạng này. Biểu đồ thiệt hại dán trên bảng khiến ai cũng há hốc: chỉ còn khoảng hai nghìn phi công; số người mất đã vượt quá hai trăm; nếu tính cả người bị thương, gần một nửa không thể tham chiến. Rất nhiều người còn chưa rõ có thể quay lại hay không.

Dẫu vậy, nỗ lực duy trì lực lượng vẫn được thực thi. Bộ Không quân đã chiếm dụng những thanh niên tiềm năng của Cục Tình báo để bù đắp kịp số lượng ra trận.

Duy nhất những gì họ có chỉ là con số. Kỳ vọng các phi công mới huấn luyện khẩn cấp có thể đạt được trình độ chiến đấu ngang hàng với những người đã “được huấn luyện” trước chiến tranh là điều bất khả.

“Xin phép hỏi: đây là chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Nếu bị trúng đạn, họ hoàn toàn có thể nhảy dù hạ cánh xuống đất rồi tái xuất được chứ? Tỷ lệ tổn thất này chẳng phải có phần dị thường hay sao?”

Câu trả lời cho một thắc mắc như thế cũng đủ khiến đầu óc đau nhói.

“Có hai vấn đề.”

“Xin giải thích.”

“Thứ nhất, các phi công không chịu nhảy dù ngay cả khi máy bay bị trúng đạn.”

“…Tại sao lại như vậy?!”

“Gần đây, dù chỉ vài cá nhân, Đội Pháp Sư Không quân của Quân Đế quốc đã đổ bộ xuống mặt đất. Ông còn nhớ không?”

“À, có phải đội đặc nhiệm được cử đến để giải cứu tù binh hay gì đó không?”

Phần lớn người trong phòng họp không biết, nhưng Thiếu tướng Habergram và một số ít khác biết rõ đơn vị đó chính là Đội Pháp sư không quân số 203, một đám quái vật thuộc quyền trực tiếp của Bộ Tham mưu Đế quốc.

Dùng một đơn vị giá trị cao như vậy chỉ để cứu vài đồng đội? Không thể nào. Ngay từ đầu, tại sao một “át chủ bài” của Bộ Tham mưu lại được điều tới chiến trường phía Tây? Một thời, các cơ quan Liên hợp quốc từng tranh cãi nảy lửa về điều đó... nhưng giờ thì đáp án đã rõ.

“Cảnh sát đã đụng độ với lính địch nhảy dù. Tin tức ấy lan thành tin đồn rằng ‘quân địch đang đổ bộ’. Mặc dù chúng ta đã thông báo về đồng phục quân đội mình rất nhiều lần, nhưng phi công thoát nạn vẫn liên tục bị tấn công nhầm.”

Trong chiến tranh, tin đồn lan nhanh như bệnh dịch. Một khi dân thường tin rằng “địch đang đổ bộ”, thì không thể ngăn họ không phản ứng.

Các quán rượu toàn thành phố đều râm ran: bất cứ ai từ trên trời rơi xuống đều là kẻ thù.

Và thế là, hình ảnh “lính địch từ bầu trời” ăn sâu vào đầu óc người dân. Câu chuyện lan ra khắp nơi. Đến khi giới chức quân sự Liên hợp quốc nhận ra, thì đã quá muộn.

“Thêm vào đó, sau khi một phi công tình nguyện bị dân thường tấn công chết vì hiểu lầm ngôn ngữ, toàn bộ phi công đều nói rằng: Nếu phải chết, họ thà chết trên không còn hơn.

“…Tình trạng này cần phải được cải thiện ngay lập tức. Như vậy thì còn đâu là mục tiêu ban đầu nữa.”

Không ai trong số những người dự họp có thể kiềm được tiếng thở dài. Một bi kịch thực sự.

Một người anh hùng đã đào thoát để chiến đấu chống lại Đế quốc... lại bị những công dân của Liên hợp quốc, vì “lòng yêu nước”, đánh đập đến chết ngay khi vừa đặt chân xuống vùng đất mà anh ta đang liều mạng bảo vệ.

“Thiếu hụt lực lượng bảo trì và hậu cần. Dù đã mở rộng nhà máy để đáp ứng sự tăng trưởng đột ngột của không quân, nhưng khi nhiều loại máy bay cùng tồn tại, đội ngũ kỹ thuật viên không thể kịp bổ sung.”

Đại diện Bộ Không quân lần lượt trình bày thực trạng nghiệt ngã: tình cảnh và khó khăn của Không quân Hoàng gia là vô cùng nghiêm trọng.

“Cho nên, tỷ lệ máy bay sẵn sàng chiến đấu giảm là điều không tránh khỏi…”

“Theo lực lượng không quân, động cơ gần đây hư hỏng quá nhiều. Công bằng mà nói, ngoài khâu bảo trì thì nguyên nhân chính nằm ở ‘lỗi trong quy trình sản xuất’.”

“Chúng tôi buộc phải gấp rút mở rộng dây chuyền, phải huy động cả công nhân mới chưa thành thạo…”

Ngay cả đám xuất thân từ trường công danh giá cũng suýt bị đánh ngay khi vừa hạ cánh, chỉ vì không chứng minh được thân phận kịp thời. Với những câu chuyện như vậy lan truyền khắp nơi, thì mong chờ tinh thần của đám phi công sẽ lên cao chẳng khác nào ảo tưởng.

Khi người ta nhận ra ý nghĩa thực sự đằng sau tỉ lệ tử trận bất thường trên không, đã quá muộn. Chính Thiếu tướng Habergram cũng phải cắn răng tức tối, một âm mưu thâm độctinh vi, đến mức phải thừa nhận rằng phe mình đã bị qua mặt.

"Vậy... vấn đề thứ hai là gì?"

Thủ tướng hỏi dồn dập, nhưng trong lòng ông cũng đã có dự cảm về câu trả lời.

"Là tình trạng thiếu hụt nhân sự hậu cần, như thợ bảo trì, nhân viên kỹ thuật, v.v..."

"Với tốc độ mở rộng phi đội quá nhanh, dù có tăng cường năng lực sản xuất thì vẫn không thể theo kịp. Trong tình hình các loại máy bay đủ kiểu loại hỗn tạp như hiện nay, việc mở rộng lực lượng bảo trì là điều không tưởng."

Các quan chức từ Bộ Không quân lần lượt lên tiếng, giọng đầy mệt mỏi. Khó khăn và khủng hoảng mà Không quân Hoàng gia đang đối mặt thật sự nghiêm trọng đến mức báo động đỏ.

"Cho nên, tỉ lệ máy bay có thể đưa vào hoạt động đang giảm dần... không tránh khỏi."

"Đội Không quân có gửi phản ánh lên đây. Gần đây, động cơ thường xuyên gặp sự cố. Nếu đánh giá công bằng, nguyên nhân lớn nhất không phải do bảo trì, mà là... 'lỗi từ khâu sản xuất'."

"Không còn cách nào khác. Chúng ta đã mở rộng dây chuyền sản xuất vượt quá mức chịu đựng. Ngay cả công nhân mới chưa qua đào tạo bài bản cũng bị điều động..."

Đây vốn là chủ đề mà nơi quan trường thường nổ ra cuộc chiến đổ lỗi phức tạp. Nhưng hiện tại, tất cả chỉ còn là những tiếng thì thầm lặng lẽ, những cái nhìn tránh né ai cũng chỉ muốn chứng minh “bộ phận tôi không sai”.

Tình hình nguy cấp đến mức không còn gì để biện minh nữa.

Một ánh nhìn lướt qua phía ghế trên cùng, nơi Thủ tướng đang ngồi, vẻ mặt ông hiện rõ vẻ mệt mỏi.

"Hãy trông mong vào những người bạn bên kia đại dương. Dù gì, chúng ta cũng có nhiều bạn bè mà. Còn về con quỷ mà ta vừa ký hợp đồng gần đây, nó sẽ làm việc được đến đâu?"

"Có vẻ sẽ là một trận chiến cực kỳ gian nan. Theo báo cáo của các tùy viên quân sự mà chúng ta cử đi, Quân đội Liên bang đã suy yếu nghiêm trọng... do những rắc rối chính trị trong quá khứ."

"Chắc cũng không đến mức thảm hại như Dacia chứ?"

"Cái đó thì..."

Dù đáp lại là “không vấn đề”, nhưng quan chức phía Lục quân lại tỏ ra lưỡng lự, giọng ngập ngừng.

Cũng phải thôi, bởi chính Habergram đã đệ trình báo cáo tình hình thực địa của Liên bang cho Bộ Lục quân. Kết quả của cuộc điều tra, theo yêu cầu từ Lục quân, là một bi kịch. Dù có lạc quan đến đâu thì hơn một nửa sĩ quan cũng thiếu kinh nghiệm thực chiến. Còn các tướng cấp cao thì đã sụp đổ hoàn toàn sau nhiều năm bị thanh trừng chính trị.

Công tác nhân sự thì rối ren không lối thoát.

Và ở hai lĩnh vực then chốt trong chiến tranh hiện đại, không quân và pháp thuật quân sự, tình hình lại càng bi đát hơn: bị phá hoại hoàn toàn bởi các cuộc đấu đá nội bộ.

Việc tái cơ cấu đang được tiến hành trong gấp gáp, nhưng trang bị thì cũ kỹ đến mức cổ lỗ sĩ. Chỉ có hỏa lực mặt đất, đặc biệt là pháo binh là còn giữ được mức “trung bình trở lên”. Tuy nhiên, nếu báo cáo cho rằng khả năng phối hợp của lực lượng mặt đất là tuyệt vọng, thì cũng chẳng còn gì để trông chờ.

Dù không đến mức thảm họa như Đại Công quốc Dacia, nhưng thực trạng trong Quân đội Liên bang cũng đáng báo động, đến mức ngay cả Thiếu tướng Habergram cũng nắm rõ trong lòng bàn tay.

"Dẫu vậy, việc gặp khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Rốt cuộc, họ không thể tận dụng ưu thế quân số áp đảo của mình."

"……Thật là, quá lãng phí."

"Cụ thể thì?"

"Dù sao đi nữa, họ vẫn đang gánh phần lớn binh lực chính của Đế quốc."

Một nhận định xác đáng rằng Mặt trận phía Đông mới là chiến trường chính.

Rốt cuộc, Đế quốc thì lo sợ sức mạnh hải quân của mình, còn Liên hiệp Vương quốc lại lo về khả năng tác chiến mặt đất.

Đế quốc và Liên bang giao chiến quy mô lớn trên đất liền, còn Liên hiệp Vương quốc thì đối đầu qua eo biển bằng không chiến với Đế quốc.

Thẳng thắn mà nói, trọng tâm chiến lực của Đế quốc đang dồn vào phương Đông.

"Nếu chúng ta có thể tăng cường hỗ trợ ở đó, thì rất có thể sẽ giảm được áp lực đang đè nặng lên mặt trận không chiến của ta hiện tại."

Với vẻ mặt bất mãn, đại diện phía Lục quân lên tiếng đề xuất:

"Thế còn triển khai lực lượng không quân thì sao? Chúng ta có thể lợi dụng cơ hội khai thác tuyến hàng không phương Bắc mà Liên bang đang mong muốn, để đề xuất thành lập một lực lượng phòng vệ vận tải đường không chung."

"Với tư cách Hải quân, chúng tôi kiên quyết phản đối đề xuất của Lục quân."

"Không quân cũng không muốn dính líu gì hết. Các vị có biết tình hình phòng không nội địa hiện nay nghiêm trọng đến mức nào không?"

Cũng phải nói, với bên bị đề xuất như họ thì đây quả là phiền phức chẳng khác nào tai họa.

Cả Hải quân lẫn Không quân đều cắt ngang phản bác với thái độ kiên quyết như thể một nhát chém dứt khoát, không hề do dự. Nhìn cách họ trừng mắt với phía Lục quân, đúng là chỉ thiếu điều thổi phù ra khói mũi!

"Thứ lỗi, nhưng tôi có thể hỏi lý do được chứ?"

Câu hỏi đầy vẻ khó chịu từ phía Lục quân chỉ nhận lại ánh mắt lạnh nhạttừ chối thẳng thừng.

"Như các ngài Lục quân cũng biết, thống nhất hệ thống chỉ huy chỉ dẫn đến rắc rối mà thôi. Không cần phải ép buộc hợp tác."

Các nhân vật chóp bu Hải quân nói ra câu đó như thể nhổ toẹt vào ý tưởng hợp tác.

Không quân thì chẳng cần nói gì, chỉ rút ví ra, dốc ngược xuống, bịch... bịch, vỗ đáy ví như thể đang nói: “Một xu cũng không còn!”

Cả hành động lẫn lời nói đều thể hiện rất rõ thông điệp: "Chúng tôi không có gì để góp."

"Liên kết với quân đội Liên bang khó đến vậy sao?"

Thủ tướng Chabule chen vào với vẻ không thể chịu nổi tình hình căng thẳng.

"Không quân chúng tôi hoàn toàn không có dư lực."

"Về phía Hải quân, tôi xin nói thẳng, doctrine và cơ cấu tổ chức khác biệt quá lớn. Giữ liên lạc thông qua tùy viên quân sự hay sĩ quan liên lạc là giải pháp khả thi nhất hiện tại."

Không quân, hoàn toàn cạn kiệt lực lượng.

Dù có cố moi ra thì cũng chẳng được gì, mà phía Hải quân thì rõ ràng không hề có ý định hợp tác. Xét đến việc Hải quân Liên bang thậm chí không đạt chuẩn của một lực lượng hải quân ven biển, thì từ chối cũng là điều dễ hiểu. Nhiệm vụ vận chuyển vật tư dưới ưu thế trên không của kẻ địch không có gì hấp dẫn cả.

"Thật là khó xoay xở."

Ai đó thì thầm. Mọi người xung quanh bắt đầu đưa điếu xì gà lên môi như thể muốn giấu đi bầu không khí khó xử. Nếu lấy thời tiết để ví von, thì căn phòng giờ đây giống như một bầu trời thu xám xịt phủ đầy khói tím lơ lửng.

Không thể không cảm thấy nặng nề và ảm đạm.

"Vậy thì sao? Còn những người con yêu quý ở các thuộc địa thì thế nào? Chẳng lẽ đến giờ vẫn không chịu gửi thứ gì hơn cái gọi là 'quân tình nguyện' à?"

"Câu trả lời là một 'không' rõ ràng. Dư luận ở đất nước đó hoàn toàn phản đối việc tham gia vào chiến tranh."

Âm thanh lách cách nghiến răng trong phòng không chỉ đến từ một người. Đối với người dân Liên hiệp Vương quốc — tự hào, kiêu hãnh, nhưng lúc này bất đắc dĩ phải cầu viện, việc bị dư luận thuộc địa quay lưng như vậy, chắc chắn nghiến xì gà không thôi là chưa đủ để hạ hỏa.

"…Chúng ta có thể trông mong vào chiến dịch tuyên truyền của Đế quốc chăng?"

"Thiếu tướng Habergram, xin ông trả lời."

Bị người điều phối gọi tên, ông Habergram trở thành trung tâm của mọi ánh nhìn. Tất cả đều muốn biết câu trả lời. Cái không khí làm bộ thờ ơ trong phòng cũng đã bị gạt phăng—rõ ràng là mọi người đang đặt nhiều kỳ vọng vào dân thuộc địa.

Tiếc thay, thứ mà Habergram mang về lại không phải tin mừng, mà là tin dữ.

"Nếu phải nói thẳng… thì ảnh hưởng của Đế quốc... chỉ ở mức sai số cho phép mà thôi."

Một cách diễn đạt được bọc đường, dẫu không che giấu được sự thật. Không có bằng chứng cụ thể, nhưng người ta có thể thấy rõ rằng chiến dịch tuyên truyền của Đế quốc hoàn toàn thiếu sự phối hợp và định hướng thống nhất.

Nói một cách miễn cưỡng thì cũng được, bởi xét về mặt lý thuyết, đội ngũ đại sứ quán Đế quốc đang cố gắng tiến hành chiến tranh tuyên truyền tại các nước trung lập, nhưng đó lại là nỗ lực cá nhân lẻ tẻ, chẳng có chút gì gọi là tổ chức.

"Cơ quan tương đương với văn phòng đại diện của Bộ Ngoại giao Đế quốc có đang hành động. Theo nghĩa đó thì có thể nói là Đế quốc cũng đang tiến hành một vài hoạt động tuyên truyền. Nhưng, thật ra thì cũng chỉ là chuyện quy mô nhỏ, không đáng kể."

"Vì sao lại như vậy? Những chiến dịch bí mật không công khai chẳng phải là chuyện thường tình hay sao? Đám người đó lúc nào cũng chuẩn bị kỹ càng cả. Khả năng Đế quốc đã triển khai chiến dịch thao túng dư luận từ lâu thì sao?"

"Không thể phủ nhận hoàn toàn là một minh chứng cho ma quỷ."

"Tuy nhiên, xin hãy nhớ lại truyền thống đối ngoại của quốc gia đó. Về tổng thể, Đế quốc không phải là một quốc gia đặt nặng dư luận trong chính sách ngoại giao. Nhiều khả năng, đây chỉ là các quyết định cục bộ ở hiện trường."

Một vài đại biểu cứng đờ người lại—hẳn họ vừa nhớ ra bản chất "kém ngoại giao" của Đế quốc.

Là một cường quốc quân sự mới nổi, Đế quốc là đứa con cưng của thời hiện đại không ngừng sản sinh đột phá trong kỹ thuật, sản xuất, kinh tế, và sức mạnh quân sự.

Thế nhưng, có lẽ chính vì như vậy mà Đế quốc gần như không có sự thấu hiểu về nghệ thuật ngoại giao.

"Thế giới quan của chính phủ Đế quốc đúng là duy ý chí thuần túy. Họ tin tưởng không chút nghi ngờ vào chủ nghĩa duy lý sẽ chi phối thế giới. Nếu họ cho rằng Liên bang không có lợi ích nào khi tham chiến, thì điều đó cũng không lấy gì làm lạ."

Sự kiêu ngạo của những kẻ tin rằng thế giới phải vận hành theo lẽ mà họ tin là đúng. Chính cái thái độ đó là lý do mà những cường quốc mới nổi, chưa từng nếm trải thất bại, thường dễ bị hụt chân.

Dù vậy, thực tế hiện tại là: chính quyền Liên bang có ra sao thì ra, dư luận nước họ vẫn không hề muốn can dự vào chiến tranh. Ở điểm này, việc phía Đế quốc tỏ ra chủ quan cũng không phải vô lý. Dường như người đồng minh mạnh mẽ nhất của Đế quốc lại chính là dân ý của kẻ khác.

"Vậy thì... sự thụ động này là... dân ý, đúng chứ?"

Giọng nói lạnh nhạt vang lên trong phòng họp.

"Vâng, thưa Thủ tướng. Thật không may, dư luận Liên bang dường như muốn giữ khoảng cách với hành vi chiến tranh."

Truyền tải tin xấu bằng cảm xúc chỉ khiến người ta khó chịu thêm. Khi báo tin xấu, phải giữ thái độ trung lập, đó mới là cách làm của một người đưa tin có trách nhiệm.

"Thật phiền toái hết sức... Ta muốn kéo họ vào cuộc cơ mà..."

"Cũng vì lý do đó, chúng ta cần thời gian. Hiện tại, Bộ Ngoại giao và Bộ Thông tin đang soạn thảo kế hoạch tuyên truyền thời chiến. Dự kiến sẽ tiến hành chiến dịch tác động dư luận nhắm đến giới trí thức, bất kể phe phái."

"Hi vọng chúng ta sẽ thu được gì đó từ việc bắt tay với đám quỷ cộng sản..."

Chắc hẳn họ đang suy nghĩ về lợi và hại khi lôi kéo được phe cộng sản vào phe mình. Khi có vài người im lặng gật đầu, cũng đủ để thấy sự nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản đã lan rộng đến mức nào.

Tuy nhiên, Thiếu tướng Habergram chỉ có thể nhún vai đầy mỉa mai trong lòng. Điều đáng sợ ở cộng sản chính là khả năng lan tỏa và thẩm thấu. Chúng giống như bộ binh, luồn lách vào những khe hở nhỏ nhất rồi âm thầm bám rễ.

... Habergram chỉ còn biết cười khổ. Dù sao thì, đó cũng là loại vấn đề chỉ nên lo khi chiến tranh đã thắng lợi.

"……Dù sao đi nữa, tình hình hiện tại quá nhiều vấn đề. Chúng ta cần phải câu giờ. Và hơn hết, không thể để tổn thất binh lực."

"Nếu vậy, thì tuyến hàng hải phía Bắc mà chúng ta bàn trước đó là lựa chọn hợp lý nhất."

Thủ tướng và điều phối viên một lần nữa kéo chủ đề quay về kế hoạch tiếp tế cho Liên bang. Xét về mặt lý thuyết, đường biển có hiệu suất tiếp vận cao không thể xem nhẹ.

Tất nhiên, vấn đề vẫn nằm ở chỗ ba quân Lục, Hải, Không có thể moi đâu ra lực lượng để thực hiện điều đó.

"Thưa Thủ tướng, như tôi đã trình bày..."

"Khoan đã."

Thủ tướng Chabule đưa tay ra hiệu dừng lại, rồi nhẹ nhàng cất giọng, như đang nói lời khuyên bảo.

"Các vị, chúng ta đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt tàu thuyền nghiêm trọng. Vì vậy, tôi xin đề xuất, hãy kết hợp tàu vận tải dân sự vào mô hình đoàn hộ tống."

Đề xuất kết hợp tàu dân sự khiến tất cả phải nghiêng đầu khó hiểu. Đó là vùng biển nguy hiểm hiển nhiên. Công ty bảo hiểm? Không đời nào chịu ký hợp đồng.

Ngoài các tàu bị trưng dụng, khó ai tưởng tượng sẽ có tàu nào chịu hướng đến tuyến hàng hải phía Bắc... trong tình huống bình thường.

"Cho phép tôi hỏi một điều..."

Một viên chức Bộ Ngoại giao, người vẫn im lặng từ nãy đến giờ khẽ cất tiếng. Bộ óc ba lưỡi điển hình của Liên hiệp Vương quốc.

"Ồ... quả là nhạy bén một cách đáng nể."

"Ý ngài là bao gồm cả tàu mang quốc tịch nước trung lập?"

Một câu hỏi tưởng chừng như đơn giản, nhưng hàm ý phía sau lại vô cùng nghiêm trọng.

Nếu thêm tàu trung lập vào đoàn hộ tống... chẳng phải là đang tự tạo cớ cho một 'tai nạn nghiêm trọng' xảy ra hay sao?

Chính vì vậy, tất cả những người hiện diện nín thở chờ đợi câu trả lời của Thủ tướng Chabule. Liệu ông muốn để sự cố ấy xảy ra?

"Nói sao nhỉ... Xét về dài hạn thì khả năng đó không thể loại trừ. Tuy nhiên, dĩ nhiên giai đoạn đầu tiên sẽ chỉ sử dụng tàu của chúng ta. Nhưng... tùy theo tình hình, ví dụ như thiếu hụt tàu thuyền, mọi thứ đều có thể thay đổi. Với câu hỏi giả định như thế, tôi e rằng không thể đưa ra câu trả lời chính thức."

"Hahaha, đúng là ngài nói chí lý."

Một câu trả lời... mập mờ khôn khéo.

Không phủ nhận, nhưng cũng chẳng khẳng định. Tuy nhiên, những ai hiểu rõ lối nói của Whitehall đều hiểu rõ ẩn ý trong đó.

Không phủ nhận tức là nếu cần thiết, Thủ tướng sẽ hành động không chút do dự.

"Thưa các quý ngài, xin hãy cười mà gọi tôi là kẻ tàn độc cũng được. Chúng ta đâu phải đang ở trong trường nội trú danh giá nào. Giờ là lúc nghiêm túc mà tiến hành chiến tranh."

Một cách nói vòng vo, lịch sự nhưng dứt khoát có thể thấy rõ Chabule đã hạ quyết tâm, hành động hoàn toàn theo lý trí của quốc gia.

Vì thế, không ai tỏ vẻ ngạc nhiên khi ông tiếp tục phát biểu:

"Tốt, giờ chúng ta xác nhận lại phương châm hành động. Chiến sự trên không ở mặt trận phía Tây sẽ chỉ dừng ở mức 'ngăn chặn'. Như vậy, nhiều binh lực của Đế quốc sẽ bị kéo sang mặt trận phía Đông, đúng không? Trong khi đó, mục tiêu lớn của chúng ta là lôi kéo các dân thuộc địa về phía mình."

"Nếu kéo dài quá lâu, khả năng duy trì chiến tranh của Liên bang có thể sụp đổ."

"Vậy thì để nó sụp. Nếu được, ta mong muốn kết cục là cả hai bên cùng diệt. Dĩ nhiên, để Đế quốc sống sót là kịch bản tồi tệ nhất. Vì vậy, phải tìm cách khiến cả hai đều kiệt quệ."

Một lời mỉm cười, nhỏ nhẹ nhưng tuyệt đối là lời thật lòng của Thủ tướng.

Và kỳ lạ thay, phần lớn người dự họp... đều đồng tình.

Bởi lẽ máu đổ ra nên là của thanh niên nước khác, không phải của chính quốc gia mình.

Quan trọng hơn cả, với Liên hiệp Vương quốc...

Nếu Đế quốc đáng ghét và bọn cộng sản đáng ghét kia tự tiêu diệt lẫn nhau thì còn gì tuyệt vời hơn?

"Tôi có một đề xuất. Để thể hiện 'tình hữu nghị với Liên bang', hãy cử các đơn vị tình nguyện có nguồn gốc từ Hợp Chúng Quốc và đội lính ma thuật thủy quân lục chiến tham gia hộ tống tuyến Bắc."

"...Anh nói gì cơ, đơn vị tình nguyện đó là—"

"Vâng, là những người xuất thân từ Liên minh Hiệp ước. Xét cả về tuyên truyền lẫn chính trị và quân sự, tôi cho rằng nên đưa họ vào lực lượng phái cử."

Một đề xuất hiếm hoi từ phía Bộ Ngoại giao, thiên hẳn về chiến tranh tuyên truyền.

Nói thẳng ra, đây là một đề xuất cố ý gạt bỏ yếu tố hợp lý về mặt quân sự.

"Ý kiến của Hải quân?"

"Phản đối."

"Phản đối!"

"Gì cơ?"

"Tôi không phản bác mục đích. Cũng hiểu được dụng ý. Nhưng nếu nói thẳng ra—chúng tôi không có phương tiện thực thi nó."

Chiến dịch này không phải là loại mà những người đang cầm súng ngoài mặt trận sẽ vui vẻ thi hành.

Thái độ nghiêm khắc của Hải quân, dù sao cũng cho thấy họ hiểu rõ mục tiêu chính trị của đề xuất.

"Tức là không thể xuất lực lượng hộ tống tuyến hàng hải?"

"Hiện tại, tình trạng thiếu hụt tàu hộ tống đang rất nghiêm trọng. Nếu còn bị yêu cầu điều thêm, chiến dịch hộ tống hàng hải hiện tại sẽ có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn."

Dù bị ánh mắt và giọng nói đầy áp lực của Thủ tướng Chabule dồn ép, lập trường của Hải quân vẫn không thay đổi.

Không phải là không chịu thay đổi, mà là... không thể thay đổi.

"Thưa Thủ tướng, tôi tin ngài cũng biết rõ điều này từ thời còn giữ chức Hải quân khanh."

"...Nếu là chuyện đó, thì tôi nhớ rằng đã từng nói số lượng có thể bù đắp bằng việc rút tàu khu trục thuộc hạm đội..."

"Tôi nhớ rất rõ điều đó."

"Câu trả lời từ hạm đội là: không thể. Số lượng tàu khu trục đã không còn chịu nổi tốc độ tổn thất gia tăng. Trong tình trạng thiếu tàu hộ tống cho lực lượng chủ lực của hạm đội thì..."

"Đúng vậy. Khả năng trinh sát của hạm đội, cũng như tác chiến chống tàu ngầm, đều sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng."

"Tôi muốn hỏi một điều. Trong khi tàu ngầm của Đế quốc tung hoành ngang dọc, thì tàu ngầm của chúng ta đang nằm phơi nắng ngủ trưa chắc?"

"...Với tất cả sự kính trọng, hoàn cảnh của chúng ta và Đế quốc là hoàn toàn khác biệt! Chúng tôi là một quốc gia hải dương, còn Đế quốc là quốc gia lục địa! Họ không phụ thuộc vào tuyến hàng hải, trong khi chúng ta sống còn bằng chúng! Xin hãy cân nhắc đến thực tế đó!"

"Nếu anh hiểu rõ đến thế, thì hẳn cũng hiểu được tầm quan trọng sống còn của các tuyến hàng hải của chúng ta, đúng không?"

Nhưng trước khi người phụ trách có thể mở lời để chữa cháy cho sai lầm, Thủ tướng Chabule đã không cho bất kỳ cơ hội nào.

"Tuyến hàng hải đó quan trọng đến mức nào thì càng cần tàu khu trục để bảo vệ! Cho đến khi hệ thống sản xuất tàu hộ tống được hoàn thiện, hãy rút từ hạm đội! Các đơn vị ma đạo thủy quân sẽ đảm nhận vai trò tác chiến chống tàu ngầm."

Bầu không khí do Thủ tướng tỏa ra mang theo quyết tâm mạnh mẽ và không thể lay chuyển. Trong khoảnh khắc, các sĩ quan hải quân có phần chùn bước, nhưng rồi, họ đồng loạt phản kháng:

"Thưa Thủ tướng! Việc đó là không thể!"

"Im miệng!!!"

Một tiếng quát uy nghiêm, vang dội khắp phòng họp.

"Xin hãy cân nhắc lại! Tàu khu trục của hạm đội là những chiến hạm tinh nhuệ, dành cho trận quyết chiến hạm đội! Nếu đem họ dấn thân vào cuộc chiến tiêu hao... thì làm sao tiêu diệt được hạm đội địch?"

Đó là tiếng nói của những người hiểu rõ đại dương, nhưng họ dường như đã quên rằng, nơi này là đất liền.

Và vào khoảnh khắc Thủ tướng Chabule gầm lên, mà người của Hải quân không thể đáp lại, quyết định đã được định đoạt.

"Không có tuyến hàng hải, Liên hiệp Vương quốc không thể tồn tại lấy một ngày!"

Đó là định mệnh của một quốc gia hải dương, muốn sống sót, phải vượt biển mà đi.

Tất cả tài nguyên cần thiết cho quốc gia này... đều nằm ngoài bờ cõi.

Muốn có được chúng, thì chỉ còn cách vượt biển mà lấy.

Dù muốn hay không, nếu tách khỏi biển cả, thì Liên hiệp Vương quốc chẳng còn là chính nó nữa.

"Và để làm việc đó, chẳng phải là lý do tồn tại của Hải quân hay sao? Nếu không phải vì lý do ấy, thì bức tường phòng vệ trên biển của chúng ta đã mục nát từ lâu rồi! Nhìn vào tương quan lực lượng đi! Trong tình hình này, làm gì có kẻ nào ngu đến mức tổ chức một trận hải chiến tổng lực? Đừng nói đến thứ viển vông như trận quyết chiến! Chúng ta phải sống sót tới ngày mai trước đã! Đó mới là ưu tiên hàng đầu!"

"...Tôi đã rõ."

Không ai không hiểu tâm trạng của các chỉ huy Hải quân lúc cúi đầu.

"Không thể nào..."

Họ biết rằng rồi sẽ bị cấp dưới oán trách.

Biển phương Bắc, vốn dĩ đã khắc nghiệt giờ đây còn phải phân tán lực lượng để bảo vệ tuyến đường ấy thì nào có vui gì.

Có lẽ họ vẫn còn chưa nguôi hy vọng về một trận quyết chiến hạm đội.

Thế nhưng một khi mục tiêu tối thượng đã được quyết định, thì chính sách quốc gia phải được thực thi mà không chậm trễ.

"Chúng ta có thể bắt đầu triển khai chưa? Với tình hình hiện tại, Hải quân có thể cung cấp bao nhiêu lực lượng cho tuyến Bắc nơi mà tỷ lệ tổn thất là không thể tránh khỏi?"

"Nếu sử dụng đội tàu vận tải cao tốc, thời gian hiện diện trong khu vực nguy hiểm sẽ được rút ngắn. Chúng ta có thể cử các tàu khu trục cao tốc từ hạm đội chính quốc đi kèm làm hộ tống."

"Ít nhất tôi muốn một đội tàu vận tải cao tốc có thể duy trì tốc độ hành trình mười tám hải lý trở lên!"

"Ngài có biết tỷ lệ tổn thất ở vùng biển gần chính quốc không?"

"Ngài bảo chúng tôi dùng đội tàu vận tải chậm mà băng qua vùng kiểm soát hải quân của địch à!?"

Cuộc tranh cãi nổ ra xoay quanh "làm thế nào để thực hiện" chứ không còn là "có nên làm hay không" nữa.

"Chính vì vậy mới cần tàu hộ tống!"

"Vùng biển chính quốc là nơi hạm đội chúng ta còn có thể kiểm soát được! Nhưng nếu phải vượt qua vùng hoạt động của hạm đội viễn dương Đế quốc, thì câu chuyện hoàn toàn khác!"

Nếu không dùng tàu cao tốc, thì sẽ dễ dàng bị chiến hạm địch bắt kịp, rủi ro là quá lớn.

Những tiếng nói phản đối vẫn kiên quyết chỉ ra vấn đề:

"Dù sao đi nữa, cũng không thể loại trừ khả năng bị phát hiện bởi không quân hoặc pháp sư! Nếu vậy, thì việc triển khai đoàn hộ tống hùng hậu cho một hạm đội vận tải chậm nhưng quy mô lớn sẽ có khả năng thành công cao hơn!"

"Ngay cả đội tàu chậm ấy cũng đang là trụ cột cho tình hình hậu cần trong nước, thưa ngài!!!"

"Khoan, khoan, khoan đã!"

...Dù có chút lệch hướng, nhưng việc khai thông tuyến hàng hải phía Bắc đã được xác định là chính sách cốt lõi của Liên hiệp Vương quốc.

Chính vì thế, Thiếu tướng Habergram lặng lẽ chìm vào suy nghĩ. Quả thật, đây không phải là một kế hoạch tồi. Nhưng… chẳng phải nó quá có lợi cho Liên bang hay sao?

Nhìn sơ qua thì đó là kết luận nhằm tối ưu lợi ích cho Liên hiệp Vương quốc.

"Thưa quý ngài, có thể xem như các ý kiến đã được đưa ra đầy đủ cả rồi chứ?"

Ai nấy đều gật đầu đồng tình. Không có ý kiến phản đối có lẽ là điều đáng mừng. Sự nhất trí tuyệt đối là một dấu hiệu tốt cho sự đoàn kết.

Ngay cả một người tham dự không thường xuyên như Thiếu tướng Habergram cũng cảm thấy gương mặt mình dãn ra trước viễn cảnh tươi sáng. Người ta muốn tin rằng mọi thứ đang tiến triển tốt.

Nhưng chính vì điều đó, cơ quan tình báo đã bao phen uống chén đắng, không thể bỏ qua cảm giác bất an đang gợn lên.

"Chúng ta đã nhất trí về việc cử các tình nguyện quân thuộc Liên bang và các đơn vị ma đạo thủy quân của chúng ta hộ tống cho tuyến hàng hải phía Bắc. Vấn đề gây tranh cãi chỉ còn là: chuyện tàu thuyền."

Thủ tướng Chabule, rít nhẹ điếu xì gà, giữ im lặng.

Ngay khi sự kiên nhẫn của những người tham dự gần chạm ngưỡng giới hạn, ông mở lời:

"Tôi có một con tàu trong đầu."

Một câu nói khiến cả hội nghị hút vào một hơi thở sâu.

Nếu ông có ý nói đến nguồn trích tàu thuyền từ đâu, thì còn dễ hiểu. Có thể ông đã nói chuyện với người phụ trách điều phối lịch trình tàu vận tải. Nhưng... một con tàu duy nhất?

Dẫu vậy, khi một Thủ tướng lên tiếng, thì không thể coi thường. Các đại biểu đành giữ kín nghi vấn, chờ đợi ông nói tiếp.

À, ngay khi ấy, Thiếu tướng Habergram âm thầm sửa lại suy nghĩ.

Chỉ có phe Hải quân là đã biến sắc—họ hẳn đã biết con tàu đó là gì.

"Tàu có thể chở lượng lớn vật tư, mà lại không cần hộ tống."

Khi Thủ tướng đưa ánh mắt dò hỏi, phe Hải quân gần như rơi vào trạng thái hoảng loạn.

"X-x-xin ngài chờ chút, thưa Thủ tướng!"

"Việc đó thì… việc đó thì… xin hãy rút lại!!!"

Các sĩ quan Hải quân, vốn luôn tự hào về vẻ điềm tĩnh và tao nhã của mình, giờ đây như sắp sùi bọt mép vì bối rối, một cảnh tượng vừa thỏa mãn lại vừa buồn cười.

Sự cuống quýt của họ gần như chạm đến mức lố bịch, nhưng điều đó lại khiến cho người khác không khỏi bị cuốn vào sự hài hước đen tối ấy.

"Đây là kết quả của việc cân nhắc đến tình trạng thiếu hụt hộ tống mà các anh cứ kêu gào mãi đấy thôi."

"Không thể! Con tàu đó thì không được!"

"Nhưng..."

"Sẽ dùng RMS Queen of Anjou. Hãy báo với Bộ Tư lệnh Hạm đội như vậy."

Cái tên ấy, ai cũng từng nghe qua.

Con tàu đại dương lớn nhất của Liên hiệp Vương quốc.

Hay nói cách khác, con tàu chở khách và hàng lớn nhất thế giới.

Và, theo như những gì Thiếu tướng Habergram nhớ được, nó cũng là con tàu nhanh nhất trong số các tàu dân sự từng được triển khai trước chiến tranh.

Nghe đồn nó đã bị trưng dụng, nhưng nếu nhìn vào phản ứng của phe Hải quân... thì rõ ràng tác dụng của nó vượt xa lời đồn đại.

"Chọn đơn vị tinh nhuệ nhất từ lực lượng ma đạo thủy quân để làm hộ tống. Tuyệt đối không được để nó bị đánh chìm, nghe rõ chưa?"

"...Không thể nào..."

Các đại biểu Hải quân chỉ biết thốt lên rồi im lặng, ánh mắt họ đầy oán hận nhìn về phía phe Lục quân.

Phe đó không còn cách nào khác ngoài việc rít xì gà và lảng tránh ánh nhìn, đưa mắt nhìn lên trần nhà.

Các sĩ quan Không quân thì dường như chọn cách giữ vẻ mặt nghiêm túc để vượt qua thời điểm này.

Như thể không muốn bị vạ lây, họ bắt đầu chìm sâu vào những cuộc thảo luận kỹ thuật về động cơ máy bay một cách "vô tình" rất... "quá mức cần thiết".

Ngoại giao và các cơ quan khác vẫn giữ bộ mặt “ta không liên quan” như thường lệ. Họ cho rằng không nên ở lại vùng nguy hiểm này, vì chỉ tăng rủi ro vướng vào những rắc rối không cần thiết. “Vậy thôi, ta rút lui…” đó là khi Thiếu tướng Habergram quyết định rời đi.

Bỗng nhiên, tiếng gọi của một thư ký trẻ khiến ông chợt nhận ra: mình vừa được triệu tập.

Theo chân viên thư ký, ông đến trước mặt… không ai khác chính là Thủ tướng Chabule, người vừa nãy còn tranh luận nảy lửa với phe Hải quân. Thủ tướng mỉm cười, vỗ vai ông thân mật—một vinh dự mà người đời thường gọi là “được nhà lãnh đạo ưu ái.”

“Xin lỗi đã để ông đợi, Ngài Habergram. Rất gấp, nhưng ta rất mong ông có thể cùng ta dùng trà lúc 3 giờ chiều mai. Nếu được, xin mời đến Văn phòng Thủ tướng sau.”

“Thưa ngài, tôi vô cùng vinh dự!”

Lời mời của Thủ tướng mang tính mệnh lệnh. Trừ phi đã có hẹn với Quốc vương, thì từ 3 giờ chiều mai, Thiếu tướng Habergram sẽ theo Thủ tướng Chabule.

“Tốt. Ta sẽ bảo quản gia chuẩn bị. Chỉ cần món nhẹ thôi, được chứ?”

“Vâng, xin cảm ơn, Thủ tướng.”

Ngày X tháng X - Năm thống nhất 1926 - Văn phòng Thủ tướng, Londinium

Đúng 3 giờ chiều hôm sau, Thiếu tướng Habergram có mặt tại Văn phòng Thủ tướng. Bầu trời xám xịt như thường lệ, ánh nắng hiếm hoi là điều xa xỉ dưới bầu trời thu này. Ông lớn lên giữa thời tiết như vậy, nên không phàn nàn. Dẫu đôi khi cũng thèm được lên bờ biển nghỉ dưỡng, nhưng giờ là thời chiến. Mọi thú vui sẽ chờ sau khi hòa bình trở lại.

Ngay cả thói quen “dùng trà 3 giờ” cũng không tránh khỏi ảnh hưởng chiến tranh. Vùng quanh Văn phòng Thủ tướng được bố trí hỏa lựu phòng không và nhiều hầm trú ẩn; binh sĩ vừa canh phòng vừa nhâm nhi trà chiều. Một khung cảnh vừa thư giãn vừa u buồn.

Phòng trà trong một góc biệt thự Thủ tướng có xô nước chống cháy nhắc nhở không thể quên mình đang giữa thời chiến.

“Mời ngồi.” Thủ tướng ân cần mời ông vào ghế. Người hầu vội vàng chuẩn bị trà. Trước chiến tranh, Habergram chưa bao giờ mơ được ngồi chung bàn trà với Thủ tướng.

Dù vinh dự, ông không khỏi chạnh lòng vì tình cảnh đất nước. Mọi thứ đều gợi lên nỗi buồn: từ không gian phủ màu be đến dáng người trung niên của các viên chức Phủ Thủ tướng, người trẻ hầu như đã lên tuyến đầu. Chỉ có những người lớn tuổi còn lại để phục vụ.

Khi lễ tân mang khay trà đến, ông thoáng giật mình. Bộ ấm chén bạc đáng lẽ đã xỉn màu nay được đánh bóng đến mức bất thường. Trong cảnh thiếu nhân lực, ai đó vẫn bỏ công mài rửa cho từng chi tiết nhỏ. Habergram thấy vừa ngưỡng mộ vừa ngạc nhiên.

“Thật ra, gia đình tôi có phần cầu kỳ. Nhưng xét trong hoàn cảnh chiến tranh, chất lượng thế này thật đáng kinh ngạc.”

“Xét tình hình phân phối, quả là điều khó tin.”

Ngụm trà Assam do Thủ tướng mời, dù giữa thời chiến, vẫn ngon không thua bình thường. Trong cơn khủng hoảng cắt đứt thương mại, đây là điều xa xỉ.

“Chắc thợ pha trà cũng muốn đúng theo ‘mùa vụ cao cấp’ nhất. Tôi cũng không thích phải dùng hàng thay thế, nhưng tình thế bắt buộc.”

Sự cầu toàn, tình yêu truyền thống, và thái độ điềm tĩnh trước mọi biến cố, dẫu có gắng gượng, vẫn thể hiện niềm tin vào truyền thống hùng mạnh của Liên hiệp Vương quốc.

“Về phần hàng thay thế, trách nhiệm của chính phủ chúng ta cũng nặng nề. Đặc biệt việc trà bị giao chậm thật nghiêm trọng.”

Thủ tướng cười: “Không có trà thì… chiến tranh cũng chả ra gì.”

Habergram không kìm được mà mỉm cười.

Quả thật, chiến tranh mà thiếu trà thì không thể tiến hành. Ai gặp cảnh ấy cũng tìm cách mua trà bằng mọi gi như nhóm nhân viên tình báo gửi xuống phương Nam, dù bỏ vào sa mạc, vẫn xoay sở được trà.

“Dĩ nhiên, ta không thể mãi ngồi tán gẫu. Quay lại vấn đề chính. Như ngài đã nghe tại Ủy ban Phòng vệ Liên hiệp…”

Habergram chợt nhận ra mình đã hơi “thư giãn” quá. Ông ngồi thẳng dậy, chăm chú lắng nghe. Ông tự hỏi: vì sao mình được triệu đến đây? Với vai trò lãnh đạo tình báo, ông có báo cáo, nhưng chưa từng được mời vào chốn trà riêng tư này.

“Chúng ta thiếu thốn mọi thứ. Từ trà, đến tàu khu trục, tàu vận tải, cho đến… những quốc gia bạn bè văn minh mà ta có thể tin cậy.”

Thực tình, Liên hiệp Vương quốc buộc phải thừa nhận mình đang lâm nguy. Hậu quả của việc không ngăn được thất thủ Cộng hòa trên lục địa, chi phí can thiệp chậm trễ giờ phải trả bằng việc thiếu vắng người đồng minh Cộng hòa.

“Quốc hội đã than: ‘Khi họ bước vào thời hoàng kim, chúng ta lại chìm trong thời kỳ đen tối.’ Giờ cũng đỡ hơn lúc đó một chút…”

“Thưa ngài, đỡ hơn mà vẫn đến mức đó thì thật bi đát.”

“Chính xác.”

Thủ tướng đưa hộp xì gà sang, vẫn giữ thói quen dù chiến tranh. Habergram mỉm cười nhận lấy.

Dù tận hưởng xì gà, ông không nguôi thắc mắc: tại sao mình được gọi đến?

Chuyện trò lướt qua vài chủ đề, nhưng khi thời gian đã qua khá lâu mà chưa vào trọng tâm, bỗng Thủ tướng thốt:

“Ngài Habergram, thẳng thắn mà nói: ta không muốn hối tiếc việc đã bắt tay với… bọn cộng sản.”

Lời nói rơi xuống như tiếng sét. Habergram lập tức nhận ra: “Cộng sản” chính là trọng tâm buổi gặp!

Ông vươn tay với tách trà Assam, nhưng bất ngờ không thể cảm nhận hương vị.

“Về vụ nội gián làm đau đầu Cục Tình báo, tiến triển ra sao?”

“Thưa ngài, xin lỗi… vẫn chưa xác định được. Gần đây không có dấu hiệu rò rỉ mới, nên cũng có thể nội gián là một sĩ quan được điều từ Lục – Hải quân.”

Habergram lộ vẻ hoài nghi, rồi nói tiếp:

“Khó chịu hơn, không thể loại trừ khả năng họ đã biến thành ‘sleeper agent’ (điệp viên nằm vùng). Giờ chúng ta chỉ có thể tăng cường kiểm soát thông tin nội bộ đến cùng cực.”

Ông đã ráo riết rà soát cấp dưới, ndù đau lòng khi phải nghi ngờ đồng đội, ông hiểu đó là công việc bắt buộc. Đã làm đến vậy, tin rằng có thể sớm lật tẩy kẻ vô liêm sỉ, nhưng kết quả là… không một manh mối.

Giả thuyết nội gián là sĩ quan điều từ Lục, Hải quân vẫn được cân nhắc, nhưng chỉ như hy vọng thiếu chứng cứ. Với sleeper agent, chỉ cần không bị nghi ngờ là đã thắng lớn. Ông không thể nới lỏng cảnh giác.

Vì thế, với tư cách người phụ trách tình báo, Habergram buộc phải chính thức xin lỗi:

“Kết luận là, tôi chỉ biết tiếp tục cáo lỗi. Thực tế chúng ta vẫn đang điều tra.”

“…Về điểm đó…”

“Vâng, thưa Thủ tướng.”

Ông sẵn sàng chịu mắng; không có quyền biện hộ. Đó là quyết tâm của Habergram.

“Có khả năng nội gián đến từ cơ quan tình báo Liên bang.”

Lời nói ấy hoàn toàn ngoài dự đoán.

Ông không vội hỏi “Cái gì cơ?” nhờ tự chế và tập luyện lâu năm. Nhưng lập tức, bộ óc ông quay cuồng lắp ghép manh mối.

“…Cái gì cơ?!”

“Ông biết Ủy ban Nội vụ Nhân dân Liên bang chứ? Tôi nghĩ ông thạo hơn tôi, nhưng họ vừa chính thức đề nghị tạm hoãn mọi hoạt động đối đầu, và tổ chức một cuộc họp ‘trao đổi thông tin’ và ‘liên minh chống Đế quốc’.”

Habergram sửng sốt, không thốt nên lời.

Lẽ ra ông phải hỏi: “Tại sao?” hay “Thế nghĩa là sao?” Nhưng cả hai dường không hợp.

“Thưa Thủ tướng, chẳng lẽ…”

“Có thể xem đó là một tín hiệu. Dù sao, ủy viên Nội vụ Nhân dân Loliya của Liên bang đã đề xuất bằng văn bản: tổ chức đàm phán thực thi ‘trao đổi thông tin’ và ‘liên minh chống Đế quốc’.”

Habergram gật gù: “hóa ra là vậy.”

Thật thẳng thắn mà nói, việc một quan chức cấp cao Liên hiệp Vương quốc tiếp xúc chính thức với cơ quan tình báo Liên bang là bước ngoặt Copernicus.

Chẳng còn gì gây chấn động hơn.

Trong thế giới tình báo, có một điều ông càng cảm nhận sâu sắc:

“Không có gì là chắc chắn tuyệt đối.”

Mọi thứ đều đầy nghịch lý.

“Đây là lời mời chính thức sao?”

“Tất nhiên. Chính thức tuyệt đối. Dù trước đây có lệnh bắt hay bản án vắng mặt tại Liên bang, giờ sẽ được hủy bỏ.”

“Thật… kinh ngạc.”

Liệu nên thấy yên tâm, hay chấp nhận là kẻ khờ tin tưởng an ninh của công an bí mật cộng sản? Hay ngạc nhiên vì tính thật thà của họ? Đây là lựa chọn tối thượng.

“Ngài Habersram, ta muốn ngài đến điều phối cuộc họp đó.”

Không chút do dự.

“Vâng, thưa ngài. Khi có lệnh, tôi sẽ cùng thuộc viên lên đường ngay.”

Khi được mệnh lệnh, ông sẽ làm đến cùng.

“Rất tốt. Nếu ông không phiền, ông có muốn sử dụng chuyến RMS Queen of Anjou không? Lịch trình chính thức với Ủy ban Nhân dân Nội vụ của Liên bang vẫn đang được điều chỉnh, nhưng một khi mọi thứ được sắp xếp ổn thỏa thì ta sẽ tiến hành 'không chính thức' trao đổi nhân sự.”

“Nói rằng tôi không có cảm xúc nào khi phải thả lũ phản quốc, lũ cộng sản đáng nguyền rủa ấy thì đúng là nói dối.”

Dù vậy, Harbergraum vẫn tiếp tục lời mình.

Trên gương mặt ông, thay vì chiếc mặt nạ vô cảm thường thấy, lần này lại xuất hiện một cảm xúc khác. Có lẽ là sự nhẹ nhõm, hân hoan  hoặc có thể gọi đó là niềm vui sướng.

“Miễn là có thể đưa được đồng đội của ta trở về từ móng vuốt của bọn cộng sản – thì dù muốn hay không, ta cũng sẽ làm.”

Những đồng đội đáng kính ấy,  những người từng bị bắt giam và mất tích.

Tình báo Vương quốc Liên hiệp không hề ảo tưởng về sự “quý tộc” của bọn cộng sản. Những học giả thiên về chủ nghĩa dung hòa có thể không hiểu nổi, nhưng những kẻ như Ủy ban Nhân dân Nội vụ, ngay cả với dân mình, cũng còn tàn nhẫn không thể tưởng.

Nếu đồng đội bị giam giữ bởi những tên đồng nghiệp cuồng bạo như lũ khát máu kia mà có thể được trao trả khi còn sống, thì ngay cả người đứng đầu của một tổ chức phi nhân tính như tình báo cũng không thể ngăn nổi cảm xúc dâng trào.

Sau mùa đông sẽ là mùa xuân. Nếu có thể mơ về những ngày tháng yên bình sau thời đại tàn khốc, thì không lý gì ta lại lười nhác trong cuộc vượt đông gian khổ này cả.

“Nếu có thể, tôi rất mong được dành phòng hạng nhất để đón tiếp những người trở về.”

Số phận của các điệp viên bị bắt ông từng đọc trong báo cáo. Và có lẽ, đó là giới hạn của trí tưởng tượng con người.

Vì tuyệt mật, không thể công khai. Nhưng nếu có thể, thì mọi tranh luận về việc con người tàn nhẫn đến đâu sẽ đi đến hồi kết.

Và câu trả lời hiển nhiên sẽ là: “Không có giới hạn.”

Chỉ cần nghĩ đến những gian khổ mà đồng đội đã phải chịu đựng, khóe mắt đã muốn rưng rưng.

“Tất nhiên, rượu sâm panh và rượu vang cũng phải chuẩn bị đầy đủ. Riêng bia, có khi ta cần cả thùng.”

Một câu đùa để che đi sự xúc động. Thay vì khóc lóc bi thương, hãy bật cười đầy ngạo nghễ.

Chính vì thế, ông mới buông lời bông đùa như vậy.

“Ha ha ha! Một màn tiếp đãi bằng rượu ngon à? Nếu là tôi thì chắc tôi sẽ đòi cả xì gà. Chắc cũng không quá đáng đâu. Tiếc là... phòng hạng nhất thì e rằng không thể.”

Tình hình tàu hải quân thì ai cũng rõ. Không cần phải nói cũng biết.

Harbergraum hơi cúi đầu, tỏ ý cảm tạ vì đã chịu lắng nghe lời than thở của ông.

“RMS Queen of Anjou là tàu vận tải quân sự hoàn toàn. Nội thất sang trọng kiểu du thuyền thì đã bị tháo dỡ hết, thay vào đó là khoang vận chuyển binh lính và hàng hóa.”

“Không sao cả. So với trại giam Liên bang, thế là quá đủ rồi. Nếu quá sang trọng thì có khi người ta lại chết vì sốc ấy chứ. Thế này là ổn rồi.”

Rượu của quê hương, xì gà của quê hương và những đồng đội. Dù chỉ là hình thức.

Hãy cùng nhau tưởng nhớ những người đã khuất, tưởng niệm họ bằng cách lặng lẽ nâng ly.

Không cần nói thành lời, vì giữa những người đồng đội ấy, sự im lặng cũng đã đủ để truyền tải.

Dù lòng ngập trong cảm xúc, nhưng Harbergraum vẫn tự thúc mình quay lại thực tại.

“Xin phép quay lại vấn đề. Về việc giải phóng các điệp viên hiện đang bị đơn vị phản gián của tôi bắt giữ…”

Lý do để quay lại chuyện thực tế rất rõ ràng.

Chiến thắng trong tay  cho đến khi thật sự nắm chắc thì tuyệt đối không được xem là của mình.

Thà bị chê là lo xa còn hơn mừng hụt.

Với người làm tình báo, đặc biệt là những kẻ đã quen thất bại ở chiến tuyến Vương quốc Liên hiệp, đây là lẽ tất nhiên.

“Về cơ bản thì sẽ thả hết. Một số sẽ được giữ lại bí mật. Nếu có thể, tôi rất mong ông cho người của tôi cài vào vài kẻ 'được thả về' nữa...”

Cài điệp viên hai mang vào hàng ngũ địch – là ước mơ của bất kỳ người làm tình báo nào.

Nhưng nghe giọng Chauble ngập ngừng, ông hiểu.

“Chính trị thì không cho phép sơ suất, đúng không?”

“Đúng vậy. Nhất là khi xét đến tác động lâu dài.”

Đó là điểm phức tạp của ngoại giao và chính trị. Dù chỉ là hình thức, Liên bang và Vương quốc Liên hiệp vẫn là đồng minh.

Hai quốc gia như hai kẻ thù truyền kiếp cùng ngồi chung thuyền – duy trì thế cân bằng mỏng manh chỉ vì lý tưởng “chống lại Đế quốc.”

Càng như thế, càng không được đổ thêm dầu vào ngọn lửa ngờ vực đã âm ỉ cháy suốt bao năm.

Đòi hỏi sự kiềm chế là hợp lý.

Bởi những người làm tình báo đều hiểu rõ – không đời nào lại không điều tra những kẻ “được thả trở về.”

“Tôi hiểu. Sẽ chỉ đạo cấp dưới thật chặt chẽ. Tuy nhiên, có một vấn đề.”

Chính vì vậy, ông sẽ không cài người vào từ bây giờ.

Nhưng là người chịu trách nhiệm, Harbergraum vẫn phải hỏi một điều.

Rất đơn giản thôi.

Vấn đề là...

Lệnh “không được cài người” chỉ vừa được đưa ra lúc này.

“Trong số những người bị bắt, có vài người từ trước tới nay vẫn tỏ ra hợp tác với tôi. Với những người đó, xin hỏi sẽ xử lý ra sao?”

Những cộng tác viên đã có sẵn, thì nên xử lý thế nào?

“Giao cho anh toàn quyền. Miễn là không gây ra rắc rối.”

“Vẫn như mọi khi, phải không ạ? Tôi hiểu rồi, thưa Thủ tướng.”

Một lệnh thả tay toàn diện.

“Được thưởng thức loại trà ngon như vậy quả là vinh hạnh. À, phải rồi, không rõ bao giờ chúng tôi sẽ được lên tàu Queen of Anjou?”

“Khi tàu đã đi lại được hai hoặc ba chuyến là hợp lý.”

“Tôi đã rõ. Vậy, xin phép cáo lui.”

Ngày X Tháng 9 – Năm Thống Nhất 1926 – Tại tòa nhà của tạm thời  của ủy ban nhân dân nội vụ

Trong văn phòng vô cảm của Ủy ban Nhân dân Nội vụ, Ủy viên Roriya lặng lẽ phê duyệt đống hồ sơ. Thời chiến, công việc của ông ta chất chồng.

Không thể phủ nhận là rất bận. Nhưng... nội dung công việc lại khác hẳn so với trước chiến tranh.

Cái “pạch” của con dấu trên hồ sơ chính là lệnh “phóng thích.”

“Đồng chí Ủy viên, thật sự ổn chứ ạ?”

“Ý cậu là vụ hợp tác tình báo với phía Vương quốc Liên hiệp? Hay là vụ 'trao đổi nhân sự không chính thức' đang tiến hành song song kia?”

Đảng Cộng sản Liên bang vẫn tuyên bố rằng bàn tay của họ là đôi tay trắng sạch, luôn sẵn sàng bắt tay nhân dân.

Một lời dối trá trắng trợn, nhưng đã là tuyên bố chính thức thì phải coi là thật.

Trên lý thuyết, một quốc gia cộng sản thì không thể có mật vụ.

Thế nên cũng trên lý thuyết, không thể có chuyện mật vụ giam giữ điệp viên của Vương quốc Liên hiệp.

Nếu có – thì đó chắc chắn là do “sơ suất.”

Chính vì thế, họ mới có thể ngầm liên hệ với cơ quan tình báo bên kia – dưới cái cớ là “giải quyết khó khăn kỹ thuật trong việc quản lý xuất nhập cảnh giữa hai bên.”

Nói trắng ra, cả hai bên đều không nhận lỗi – mà muốn dàn xếp êm thấm.

Phía bên kia phản hồi rất tích cực.

Cuộc đàm phán tiến triển suôn sẻ. Với người đã lên kế hoạch như Roriya thì, điều này là dấu hiệu thành công rõ rệt.

Nếu có vấn đề... thì chính là đám đần độn trước mắt ông đây.

“Vụ hợp tác thì không sao, nhưng trao đổi tù nhân thì...”

"Được rồi."

Loriya lườm người phụ trách kẻ có lẽ đang mang đầy bất mãn – rồi thở dài ngán ngẩm, nói tiếp:

"Nghe cho rõ. Chúng ta chỉ đơn giản là công nhận rằng hai bên đều có những hiểu lầm không may."

Trên phương diện chính thức, điều cần thiết là phải phủ nhận mọi sự đối đầu giữa hai bên.

Sự thật ư? Đó chỉ là một thực tại nhỏ nhặt, không đáng để đưa ra ánh sáng công khai.

Đây là lúc cần phải thu nhỏ sự việc lại – cho dù sự thật có thế nào đi nữa.

"N-nhưng… rõ ràng là họ là tù binh chiến tranh!!!"

"Đồng chí, họ không phải là tù binh chiến tranh."

Thật đáng ngán ngẩm khi thấy những kẻ vẫn khăng khăng bám víu vào cái “thành tích bắt giữ”!

"Chúng ta không bắt ai cả, cũng không bị bắt."

Vừa nói, Loriya vừa đặt tay lên vai đối phương, nói bằng giọng điệu chậm rãi và đầy nhấn mạnh – một điều hiếm thấy ở ông.

"Đó là lỗi của nhân viên kiểm soát nhập cảnh. Những người bị tạm giữ do yếu tố kỹ thuật và pháp lý sẽ được cả hai bên phóng thích một cách thiện chí. Và để không làm lớn chuyện, cả hai bên sẽ bỏ qua lời xin lỗi."

Vừa nói, ông vừa nhìn thẳng vào mắt đối phương.

Quan sát ánh mắt đang dao động, ông cố tình nhấn mạnh câu hỏi:

"Chúng ta chỉ đơn giản là hoán đổi những người đã gặp phiền toái. Có gì sai chứ?"

Nếu đối phương không thể hiểu được ẩn ý sau câu nói ấy, thì thật hết cách.

Một người không thể nắm bắt được những tinh tế trong ngoại giao và bí mật tình báo thì không nên dính líu gì đến cơ quan mật vụ cả.

Với những cái miệng lắm lời và bốc đồng, đôi khi cần phải “khóa” lại bằng biện pháp vật lý.

"…… Tôi hiểu rồi, thưa đồng chí Ủy viên Nhân dân Bộ Nội vụ. Vậy... có phải chỉ thị ngài đưa ra là phải đình chỉ toàn bộ hoạt động gián điệp bất hợp pháp nhắm vào Vương quốc Liên hiệp?"

May thay, có vẻ như người này không hoàn toàn là kẻ không biết điều.

Loriya mỉm cười hài lòng:

"Đúng vậy. Hãy để họ ngủ yên như những sleeper agents. Nói với các handler rằng phải cực kỳ thận trọng khi tiếp xúc."

Sống sót trong gang tấc như thế, có lẽ vẫn còn giá trị sử dụng.

Biết phân biệt nguy hiểm chính là điều kiện tiên quyết để sống sót lâu dài.

Và người như vậy, cũng không phải là không hữu dụng.

"Giờ thì..." – Loriya vừa mỉm cười nhạt, vừa nhìn thuộc hạ bằng ánh mắt lạnh lùng, trầm tư suy nghĩ.

Người phụ trách hoạt động gián điệp liên quan đến Vương quốc Liên hiệp này, nên để anh ta đảm nhiệm vai trò gì tiếp theo đây?

Thẳng thắn mà nói, đối với Loriya, Vương quốc Liên hiệp không còn nằm trong phạm vi quan tâm nữa.

"Nói rõ ra nhé. Tôi muốn tránh làm rạn nứt quan hệ song phương bằng các hoạt động gián điệp bất hợp pháp tại Vương quốc Liên hiệp, ít nhất là trong thời gian tới."

"Vậy ý ngài là?"

"Hả?"

"Ý ngài là sẽ tăng cường thu thập thông tin qua các kênh ngoại giao chính thức phải không?"

"Chính xác. Tôi muốn xem Vương quốc Liên hiệp là đối tượng hợp tác chứ không phải mục tiêu đánh chiếm."

Nếu phải nói một cách cá nhân, thì Vương quốc ấy không phải là “cứ điểm cần phải chiếm đóng”, mà là “con đường nên đi qua một cách hòa bình”.

Thâm nhập trong im lặng và kết nối đến khắp nơi – đó mới là kỳ vọng lớn nhất mà Liên bang có thể đặt vào quốc gia ấy.

"Không phải vì tôi xem thường một quốc gia già cỗi. Họ vẫn sở hữu một hạm đội hải quân hùng mạnh, và nền văn hóa cũ kỹ của họ, nếu nhìn kỹ, lại là những hệ thống được xây dựng dựa trên lịch sử lâu đời."

"Tốt hơn là có họ làm đồng minh, thay vì biến họ thành kẻ thù."

Dù vậy, truyền thuyết yêu tinh và thần thoại của họ thì thật rác rưởi.

Những câu chuyện cổ tích ấy chỉ là mớ thần thoại được tẩy trắng và vô hại hóa để dụ trẻ con – hoàn toàn không tạo nổi một chút cảm hứng chinh phục nào.

Một quốc gia thật nhàm chán đến phát chán.

Kể cả khi phát động chiến tranh tình báo, cũng chỉ thu được thiệt hại.

Chẳng có gì hấp dẫn để xứng đáng trở thành mục tiêu của các hoạt động gián điệp phi pháp.

"Thêm nữa, đồng chí, chúng ta cần phải thay đổi hình ảnh đối ngoại của mình."

"Tôi muốn khiến những người tin vào lý tưởng cộng sản tiếp tục duy trì ảo tưởng ấy. Nói cách khác, nên hạn chế việc sử dụng các phương pháp quá thô bạo."

Chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng chủ nghĩa.

Trên giấy tờ, Đảng không được để tay mình vấy bẩn.

Dù trên thực tế thì... người trong cuộc đều biết cả rồi.

Dù vậy, hình thức bên ngoài vẫn có hiệu quả rất lớn.

"...... Ý ngài là chiến lược hình ảnh?"

"Đúng vậy. Không chỉ riêng với Vương quốc Liên hiệp. Đối với các cán bộ ở nước ngoài, tôi muốn tuyển chọn không dựa vào năng lực, mà dựa vào nhân cách. Nếu có thể, hãy chọn những người lý tưởng, trung thành với Đảng. Nếu vừa ngu ngốc vừa tốt bụng, thì càng tuyệt vời."

Những đảng viên sống vì lý tưởng, thường là nguyên nhân gây ra rắc rối cho Đảng – cũng chính vì sự lý tưởng đó.

Chẳng hạn như những người theo chủ nghĩa nhân đạo – họ phản đối thanh trừng, khiến Loriya nhiều lần đau đầu.

Những kẻ trong sạch, tận tâm, không thể chối cãi – thật sự rất khó xử lý.

Người không có tì vết là kẻ phiền phức nhất.

Nhưng trong thời chiến, lại là tài nguyên vô giá.

"…… Thưa đồng chí, tôi có thể hỏi một điều được không? Tại sao ngài lại bận tâm đến hình ảnh đối ngoại đến vậy?"

"Hãy hiểu về dân chủ. Dù các nước phương Tây được điều hành bởi tầng lớp tinh hoa giống chúng ta, nhưng họ vẫn phải phụ thuộc vào dư luận. Thay vì các hoạt động bất hợp pháp, chiếm được lòng dân hợp pháp sẽ mang lại lợi ích lớn hơn nhiều."

Tất nhiên, không phải coi nhẹ hoạt động đặc vụ.

Mà là thay đổi phương pháp tiếp cận.

Tùy theo hoàn cảnh, ta phải tối ưu hóa biện pháp.

Những người sống và làm việc với lý tưởng sáng chói sẽ không bị chỉ trích – thậm chí còn được đồng cảm.

Ai mà không ngưỡng mộ chính nghĩa cơ chứ?

"Những kẻ lý tưởng là sự lựa chọn tốt nhất để cử đi. Dù sao thì... ở trong nước, họ cũng chẳng có tác dụng gì. Thà để họ đi gieo rắc hình ảnh tốt đẹp của đất nước còn hơn."

Một người bạn đáng tin, tốt bụng – ai mà ghét nổi?

Nếu người nước ngoài có một người bạn như thế trong Liên bang, thì hình ảnh của Liên bang trong mắt họ làm sao mà xấu được?

Ngay cả những người cảnh giác với cộng sản, nếu lần đầu gặp một “cộng sản thực thụ” mà lại là người lý tưởng, liệu họ còn có thể giữ mãi thù địch?

Yêu cầu người dân tốt bụng của nước khác phải căm ghét người dân tốt bụng của ta – chẳng phải là điều bất khả thi sao?

Về lâu dài, đây là chiến lược cực kỳ có lợi.

Xây dựng quan hệ tốt đẹp với các đồng minh trong thời chiến là chuyện cực kỳ dễ.

Chỉ cần có kẻ thù chung, mục tiêu chung – thế là đủ để gắn kết.

"Và thật may mắn, kẻ thù của chúng ta hiện giờ là Đế quốc – kẻ thù của cả thế giới."

"H-hả?"

Người cấp dưới, định phản bác điều hiển nhiên ấy, nhưng Loriya đã cắt lời:

"Trận chiến này có thể quyết định vĩnh viễn con đường của Đảng. Thất bại không được phép xảy ra."

Một quốc gia có thể không có kẻ thù vĩnh viễn. Nhưng vẫn có những kẻ thù nhất thời.

Và hiện tại, kẻ thù của Liên bang là “một kẻ thù cô lập”.

Chúng ta chính là phe chính nghĩa, là xu hướng chủ lưu của thế giới.

Nếu không hiểu rằng điều đó chính là cơn mưa ân huệ cho vị thế chiến lược vốn luôn cô lập của Liên bang, thì thật quá đỗi ngu ngốc.

Thật không thể tha thứ cho sự khờ khạo của kẻ cấp dưới đang nhìn ông với ánh mắt ngơ ngác ấy.

Toàn là những kẻ ngây thơ bám víu lấy bộ máy chính trị-quân sự!

Thứ mà Ủy ban Nhân dân Bộ Nội vụ cần là những chiến lược gia xảo quyệt.

Nhưng hiện tại, chỉ toàn là đám vô lại và kẻ cuồng sát hoành hành.

Không phải muốn xét nét nhân cách, nhưng đám bất tài này thật không thể dung tha.

Đôi lúc Loriya thật sự muốn thở dài mà nói:

"Hay là ta nên thay hết bọn họ bằng tù nhân trong trại Lagers?"

"Chiến tranh mà không thắng, thì vô nghĩa. Ai cũng hiểu điều đó. Nhưng cách để giành chiến thắng – thì gần như không ai biết! Thật là ngu xuẩn!"

"…… V-vâng, có lẽ ngài nói đúng."

Chiến thắng, đồng chí ạ, phải là thứ khiến chúng ta tâm phục khẩu phục. Chính vì thế, chúng ta cần cho cả thế giới thấy những công dân lương thiện của Liên bang ta là như thế nào.

Dù sao đi nữa, giữa các quốc gia chẳng bao giờ có thứ gọi là “tình bạn vĩnh cửu”. Chỉ có lợi ích mà thôi.

Nhưng, Loliya vừa tính toán trong đầu vừa nghĩ:

Làm sao mà lại là ảo vọng khi muốn được ngồi cùng bàn với bên chiến thắng, cùng chia nhau quả ngọt chiến thắng với tư cách là “bằng hữu”?

Giờ đây, quốc gia mang tên Liên bang đang vượt qua được sự khác biệt về thể chế giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, vì nhu cầu đối ngoại là chống lại “Đế quốc”.

Nếu vậy thì, chính là lúc phải tận dụng tối đa sự thật đó. Việc các quan chức trong đảng không nhận thức được điều này, đối với Loliya, là điều không thể tin nổi.

Dù sao thì, hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên, chúng ta phải làm tròn trách nhiệm của mình. Làm sao để sử dụng được những hy sinh không thể tránh khỏi ấy — đó mới là điều chúng ta phải cân nhắc.

Nhìn vào tiền tuyến ngập xác người, có thể thấy rõ rằng đảng chẳng mấy để tâm đến tổn thất nhân lực.

Vậy thì, để giành được chiến thắng, việc có hy sinh là điều mặc định phải tính đến. Không phải than vãn chuyện phải trả giá, mà là phải dùng cái giá đó một cách thông minh.

Nếu những người trẻ của Tổ quốc phải chết, thì cái chết ấy phải được tận dụng tối đa.

Hãy cho người ta mang ơn. Chính vì chính nghĩa, mà những người trẻ của đất nước ta phải ngã xuống.

Loliya, thấy cấp dưới vẫn ngu ngơ không hiểu, bèn đổi cách diễn đạt để dễ hiểu hơn:

Biến họ thành những liệt sĩ.

Ý chí cao cả không được đánh giá qua kết quả, mà là qua lòng quyết tâm.

Bao nhiêu người trong lịch sử đã ca ngợi sự dại khờ là “đức tính cao quý” chứ?

Nếu đã vậy thì đơn giản thôi. Không phải lý lẽ, mà là đánh vào cảm xúc.

Bằng sự hy sinh cao cả không ai có thể phủ nhận!

Chúng ta sẽ đứng ở tiền tuyến bảo vệ tự do, hòa bình, và nhân đạo trước chủ nghĩa đế quốc. Phải khiến cho thế giới không bao giờ có thể dùng đạo đức để chỉ trích Liên bang ta.

Bình luận (0)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

0 Bình luận